I. Sự ra đời của học thuyết Khổng Tử và Mạnh
Tử
Trung Hoa cổ đại hình thành từ cuối thiên niên kỉ thứ II,
đầu thiên niên kỉ thứ I trước công nguyên. Nếu phương Đông là chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại,
thì cùng với Ấn Độ, Trung Hoa là một trong những trung tâm văn hoá rực rỡ,
phong phú và cổ xưa nhất của nền văn minh ấy. Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung
Hoa cổ đại đã xuất hiện sớm hơn so với châu Âu hàng nghìn năm. Nhà Hạ là nhà
nước đầu tiên của xã hội có giai cấp (khoảng 2205-1765 tr.CN). Trước đó, Trung
Hoa cổ đại đã trải qua thời kì rất dài của chế độ cộng sản nguyên thuỷ cùng với
nền văn minh đầu tiên ở lưu vực sông Hoàng Hà.
Sự phát triển của tiến trình lịch sử đã sản sinh ra một
thời kì văn hoá rực rỡ của văn minh Trung Hoa là thời kì Xuân Thu- Chiến quốc-
thời kì giao thoa giữa chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, cũng là
thời kì nền học thuật Trung Quốc rất phát triển. Đây là thời kì xuất hiện nhiều học thuyết triết học, tiêu biểu như: Nho gia, Đạo gia,
Mặc gia, Pháp gia.... ;trong đó có học thuyết giữ vai trò lớn trong sự phát
triển của văn hoá Trung Hoa như Nho gia, Mặc gia...mà người đương thời gọi
Khổng và Mặc là " Hiển học".
Như vậy, Nho giáo là một trong những học thuyết chính trị-
triết học ở Trung Quốc thời cổ đại tuy vai trò của Nho giáo có khi mạnh, khi
yếu, tác dụng của Nho giáo có cái hay cái dở. Trong quá trình phát triển, Nho
giáo có ba giai đoạn đáng chú ý nhất là :
1- Nho Tiên Tần (còn gọi là nho nguyên thuỷ) gắn liền với
tên tuổi của những nhà tư tưởng mở đường như Khổng tử, Mạnh Tử, Tuân Tử...
2- Hán nho (còn gọi là nho đời Hán), là thời kì củng cố,
ổn định chế độ phong kiến. Nho giáo được đề cao và trở thành hệ tư tưởng chính
thống, là khuôn mẫu đạo đức xã hội của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Nho
giáo thời kì này bị Đổng Trọng Thư cải biến, làm cho nhiều yếu tố nhân đạo,
nhân văn trong triết lý Khổng- Mạnh bị tước bỏ, thay vào đó là sự phát triển
mang tính duy tâm cực đoan.
3- Tống nho (nho đời Tống), đây là đỉnh cao của Nho giáo
trong sự phát triển của nó. Điểm nổi bật thời kì này là Nho giáo được phát
triển, bổ sung nhiều nội dung mới.
Như vậy, Nho giáo là một hệ tư tưởng của Trung Quốc thời
kì cổ đại. Ngưòi sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử. Sau khi Khổng Tử chết, nhà
tư tưởng đương thời là Mạnh Tử thừa kế chủ yếu tư tưởng của Khổng Tử. Đời sau
gọi chung hai người là Khổng -Mạnh và quan niệm con người trong học thuyết
Khổng- Mạnh là trọn nội dung quan niệm con ngưòi trong Nho giáo, nhưng không
phải toàn bộ nội dung Nho giáo.
II. Vài nét chung về
quan niệm con người trong học thuyết Khổng- Mạnh
Con người và số phận con người trong học thuyết của Khổng
- Mạnh là lấy đạo đức- luân lý làm nội dung chủ yếu. Đạo đức- luân lý được coi
là thuộc tính đẳng cấp- xã hội của con người, một thuộc tính quyết định bản
chất con người là thiện hay ác. Các quan niệm đạo đức đều đề cao lý tưởng về
cuộc đời, xem những nguyên tắc đạo đức như khuôn vàng, thước ngọc để đánh giá
con người, xem hoạt động đạo đức như hoạt động có ý nghĩa nhất của con người,
của sinh hoạt xã hội. Điều căn bản đối với con người trong học thuyết Khổng-
Mạnh là phải " tu nhân, dưỡng tính". Nhờ rèn luyện đạo đức cá nhân mà
con người chẳng những biết được
"tính " của mình, mà còn biết được cả trời đất, thiên hạ. Đạo đức là
cái gốc của con người, của xã hội.
Khổng Tử là nhà tư tưởng, nhà giáo dục vĩ đại, người sáng
lập ra trường phái Nho gia trong lịch sử Trung Quốc.
Khổng Tử là người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, thuộc
nước Lỗ (nay là tỉnh Sơn Đông). Ông đã từng làm quan, tham gia quyết định việc quốc gia đại sự, sau vì kiến
giải bất đồng, ông từ quan đi chu du các nước, sau về quê dạy học.
Học thuyết của Khổng Tử đã đề cập đến vấn đề con người
cách đây 2.500 năm. Học thuyết "nhân" của ông chính là học thuyết về
con người, đề cập đến lòng thương người mà nội dung của nó tuân theo hai nguyên
tắc thứ và trung. Ông chủ trương con người sống với nhau dựa trên cơ sở tình
thương, mà nội dung chủ yếu nhất là nhân ái, huyết thống và đẳng cấp.
Khổng Tử cho rằng mọi vật trong vũ trụ luôn sinh thành,
biến hoá không ngừng theo đạo của nó. Con người có địa vị rất lớn trong vạn vật
nên phải biết con người ai và tạo sao con người lại có địa vị ấy? Người là đạo
của trời- đất, là sự giao hợp của âm -dương, sự hội tụ của quỉ- thần, cái khí
tinh tú của ngũ hành. Con người là kết quả của bẩm tụ tinh khí âm dương, trời
đất mà thành. Vì vậy, con ngưòi phải tuân theo " thiên lý", hợp với
đạo "trung hoà". Con ngưòi sống hay chết, giầu nghèo hay thành
bại...đều do thiên mệnh qui định, theo kiểu " sống chết có mệnh, giầu sang
do trời" (tử sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên).
Cái ở trong con
người mà Khổng Tử thường xuyên đề cập đến là "bản tính" con người,
nhưng ông không khẳng định bản tính con ngưòi là thiện hay ác, mà cho rằng con
ngưòi khi mới sinh, cái tính đã có sẵn, do trời phú cho là giống nhau, nhưng do
học tập rèn luyện mà bản tính đó khác nhau (tính tương cận, tập tương viễn dã)
Khổng Tử nói: "Người ta thảy đều gần giống nhau, vì
ai đấy đều có bổn tánh lành, nhưng do nhiễm bởi thói quen, nên họ thành ra khác
xa nhau", ví dụ "kẻ học đạo, kẻ bán cá".
Theo ông, con người hoàn toàn có thể thay đổi được
"tính" bằng nỗ lực của mình. Đây là mặt tích cực trong quan điểm
"tính người" của Khổng Tử, ông còn nói: "Chỉ có bậc thương trí
và kẻ hạ ngu là không thay đổi nết của mình".
Trong lịch sử Phương Đông, Khổng Tử là người nói nhiều về
đạo làm người, vì thế học thuyết của ông đều xoay quanh chữ "nhân"
(trong luận ngữ có 60 chỗ nói đến nhân). Tuy vậy, Khổng Tử không có định nghĩa
đầy đủ về "nhân".
Chữ "nhân
" trong học thuyết Khổng Tử bao hàm nhiều mặt trong đời sống con người.
Bởi vậy, khi học trò hỏi nhân là gì, ông tùy đối tượng mà giải thích chữ
"nhân" khác nhau. Tổng hợp các cách lý giải của Khổng Tử thì nội dung
chủ yếu nhất của chữ "nhân" là lòng thương người (nhân ái). Có thể
thấy chữ "nhân" thiên về quan niệm đạo đức và cái gốc của nhân ái là
hiếu đễ. Con ngưòi của Khổng Tử không
tách rời gia đình và họ hàng, chữ "hiếu" được Khổng Tử đề cao, bởi theo ông đó là chỗ
"đích thực của nhân", xã hội có yên ổn, có thịnh trị hay không thì
cũng nhờ hiếu đễ. Bên cạnh "nhân", Khổng Tử còn chú ý đến "lễ", nhưng
"lễ" là nghi thức bên ngoài để củng cố và phân biệt đẳng cấp.
"Lễ" là tiêu chuẩn để phân biệt con ngưòi với con vật. Nhân ái là cái
bên trong, do đó "nhân- lễ" thống nhất với nhau trong học thuyết của
Khổng Tử. Ông khẳng định: "Người mà không có nhân mà có lễ đi chăng nữa
thì cũng chảng để làm gì", "nhân như bất nhân, như hà lễ hà",
nghĩa là người không có "nhân" thì sao gọi là "lễ" được.
Khổng Tử kêu gọi phải "kiềm chế mình làm đúng theo
lễ", nghĩa là không phải "lễ" thì không nhìn, không phải
"lễ" thì không nghe, không phải "lễ" thì không nói, không
phải "lễ” thì không làm. Khổng Tử cho rằng đạt điều "nhân" không
phải vì lợi ích vật chất, nên ông thường đối lập nghĩa và lợi. Ông yêu cầu đạo
đức bổn phận phải cho nhiều hơn nhận. Như vậy, mặt tích cực của Khổng Tử là
nâng con người lên, nhưng đồng thời dùng lễ giáo để buộc chặt con người lại, mà
đằng sau lễ giáo là chế độ đẳng cấp, muốn duy trì chế độ đẳng cấp không phải
bằng pháp luật, hình phạt mà chủ yếu bằng giáo dục đạo đức. Cho nên
"nhân" và "nghĩa" đi liền với nhau, trong đó nhân ái là
chất keo dính con người lại với nhau, nhưng không theo kiểu "cá mè một
lứa", mà theo kiểu có tôn ti nhất định, theo kiểu "trên kính dưới
nhường". Vấn đề yêu thương phải tuỳ thuộc vào đẳng cấp trên dưới, chứ
không phải mọi người trong xã hội đều yêu thương như nhau, cũng như tôi yêu vua khác với vua yêu tôi, con yêu
cha khác với cha yêu con.
Tóm lại, Khổng Tử là người khai sinh ra đạo Nho, đồng
thời cũng là ngưòi phát hiện ra vấn đề con người sớm nhất thế giới. Ông đã coi
con người là con người, cho dầu kẻ đó là nô lệ. Trong khi đó Arixtote là người
sau ông 200 năm, nhưng vẫn xem kẻ nô lệ chỉ là công cụ biết nói, công cụ hai
chân.
Như vậy, học thuyết "nhân" của ông là học
thuyết về quan hệ giữa người với người, quan hệ ấy phải xây dựng trên tình
thương, lòng nhân ái. Đó là tư tưởng nhân đạo về con người của Khổng Tử.
Khi nói đến vấn đề con người tức là đề cập đến vấn đề xã
hội. Để bảo vệ tính hợp lý của chế độ đẳng cấp, Khổng Tử đã dựa vào ba luận
điểm là thuyết "định mệnh", "lễ giáo" và thuyết "chính
danh". "Chính danh" là học thuyết chính trị-xã hội, song đồng
thời cũng là vấn đề đạo đức.
Theo học thuyết "chính danh" của Khổng Tử, mỗi
vật mỗi người sinh ra đều có một địa vị, công dụng nhất định, mà ứng với địa vị
công dụng ấy la một "danh" nhất định. Nếu "danh" không hợp
với "thực" thì loạn "danh"- nguyên nhân khiến cho xã hội
loạn lạc. Đó chính là vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con
không đúng đạo làm con, trật tự lễ nghĩa xáo trộn. Muốn thực hiện ổn định xã
hội, phải thực hiện "chính danh".
Chủ trương của Khổng Tử
trong “chính danh" chỉ rõ chức vụ, danh phận phải phù hợp với chức năng,
cương vị của mỗi con ngưòi. Theo Khổng Tử nếu"danh" không
"chính", thì lời nói không thuận lý (vì danh hiệu không phù hợp với
thực tế). Nói cách khác, "danh" không "chính" thì lời nói
sẽ không đúng đắn, lời nói không đúng đắn sẽ dẫn tới thi hành sai, khi đó người
với người sẽ không còn kính trọng nhau nữa. Quan niệm ấy nói rõ, quan hệ giữa
con người với nhau theo kiểu "danh chính, ngôn thuận", trên phải ra
trên, dưới phải ra dưới; như vậy, mới mong có một xã hội trật tự theo đẳng cấp.
Thực chất, thuyết chính danh bổ sung cho thuyết thiên
mệnh và lễ giáo -chẳng hạn người này là vua, kẻ khác là tôi đều do trời định
cả. Nếu như trên trời có một mặt trời thì dưới đất có một ông vua. Đó là khách
quan tất yếu, không phải do muốn hay không muốn có vua mà được. Làm vua là do
số trời, nhưng người được làm vua không phải vì thế mà vin vào đó để ăn chơi,
không lo việc nước, mà phải cố gắng để cái "thực" phù hợp với cái
"danh" (là một ông vua), cho nên đã mang cái danh vua thì phải làm đủ
trách nhiệm của một ông vua, nếu không sẽ mất "danh", mất ngôi và xã
hội sẽ rối loạn. Hơn nữa, xã hội luôn luôn biến động, nhiệm vụ của "danh'
là kiềm chế được cái "thực", chứ không phải ngược lại, ví như dây
cương và con ngựa. Bởi vì nguyên nhân của mọi sự đổ bể rối loạn xã hội cũng bắt
đầu từ cái "danh" tách khỏi cái "thực"; vậy, muốn danh
chính thì thân phải chính, ngôn cũng phải chính nữa.
Thuyết "chính danh" cắt nghĩa cho số phận con
người để lý giải cho sự bất hợp lý trong xã hội, nhưng con ngưòi lại dễ dàng
chấp nhận sự bất hợp lý đó quy tất cả đều do trời định. "Chính danh"
giúp con người gắn với trời hơn, để trời đỡ cho người, che trở cho người -điều
này gần giống như ở Phương Tây, theo kiểu "ai lo phận ấy, thượng đế lo
chung"
Có thể nói rằng, "chính danh" tạo cho xã hội có
một trật tự đẳng cấp ổn định, một xã hội bất hợp lý nhưng lại hợp lí, vì trật
tự đó không phải do con người, mà do trời, nhưng không có nghĩa là con người
muốn làm sao thì làm, mà phải tu thân thì mới giữ được "danh", kiềm
chế được "thực".
Sau khi Khổng Tử chết, Nho gia chia thành nhiều phái. Đến
thời chiến quốc, đại biểu xuất sắc nhất của phái Nho học chính thống chính là
Mạnh Tử.
Mạnh Tử họ Mạnh, tên Kha, tự là Tử Dư, người đất Trâu,
thời chiến quốc (nay thuộc tỉnh Sơn Đông). Ông sinh vào năm 372, mất năm 289
trước công nguyên.
Thời Mạnh Tử, đất nước có chiến tranh, không ai lo đến
việc nhân nghĩa, trong khi Mạnh Tử lại chú trọng đạo đức, vì thế chủ trương của
ông bị coi là viển vông, không sát với thực tế và ông không được trọng dụng, vì
thế ông về quê dạy học. Cùng với các môn đệ của mình, ông đã ghi chép lại những
điều mà ông đã đàm luận với vua các nước chư hầu trong những dịp đi chu du, để
bày tỏ quan điểm của mình. Những tư tưởng đó được ghi lại thành một quyển sách,
được gọi là "Mạnh Tử"
Mạnh Tử trước sau chú trọng ở chữ "tâm" và chữ
"tính". Ông đã tiếp thu được tư tưởng của Khổng Tử trong luận ngữ:
"tính tương cận giã, tập tương viễn dã" thành học thuyết về
"tính thiện". Ông nói rằng: "Sinh chi vị tính". Đó là tính
người sinh ra đã thế rồi, đó là tính thiện.
Trong Nho nguyên thuỷ đương thời, có nhiều quan niệm khác
nhau về bản tính con người, tập trung ở bốn quan niệm như:
- Bản tính con
người vốn thiện ("Tính khả di vĩ thiện").
- Bản tính con
người vốn ác ("Khả di vĩ bất thiên").
- Bản tính con người
không thiện, không ác ("Tính vô
thiện, vô bất thiện").
- Bản tính con
người vừa thiện vừa ác ("Hữu tính
thiện, hữu tính bất thiện").
Tuy nhiên, Mạnh Tử
quan niệm bản tính con người là "thiện", ông giải thích tại sao là
"tính thiện": "Cứ theo cái bản năng của con người, thì ai cũng
có thể làm lành, cho nên mới nói là thiện. Nếu có làm điều bất thiện là không
do bản năng, bởi vì con người ai cũng có lòng trắc ẩn, biết hổ thẹn, biết cung
kính, biết phải trái". Theo Mạnh Tử, lòng trắc ẩn là nhân, sự hổ thẹn là
nghĩa, sự cung kính là lễ, biết phải trái là trí. Đó là bốn đầu mối của thiện,
gọi là "tứ đoan", mà trời phú cho con người.
Khác với Khổng Tử, Mạnh Tử chỉ rõ: "Con người không
ai là không có tính thiện, còn khi mà con người trở thành người xấu thì do bản
tính thay đổi". Tính người ở trong con người, nhưng không phải do con
người tạo ra, mà do trời phú cho theo kiểu "cha mẹ sinh con, trời sinh
tính". Nói cách khác, trời phú cho cái "tính" thì ắt phải
"thiện". Chữ "tính" ở đây khác với chữ "tính"
người ta thường dùng là để nói đến tất cả các nét tốt, nét xấu tự nhiên, mà đây
là "tính" có đủ nhân lễ, nghĩa trí, đó là "nhân tính", tính
người. Mạnh Tử khẳng định không ai là không thiện, ví như nước, lúc nào cũng
chảy xuống chỗ thấp, không chảy ngược được- tức là con người không ác. Mạnh Tử
giải thích: con người có tính thiện thì ắt là có "tâm".
"Tâm" với "tính" là một, vậy "tâm" là cái trời
phú cho để hiểu biết, để phân biệt nhân, lễ nghĩa trí. Biết được bốn điều này
chính là bốn đầu mối của tính thiện. Như
vậy, con người biết được "tâm" thì biết được "tính", biết
được "tính" thì biết được trời.
Theo Mạnh Tử, cái "tâm" là gốc của tính thiện.
"Tâm" có sẵn trong con người và do trời phú. Khi con người có
"tâm" rồi thì cứ an vui để chờ mệnh trời, không lấy việc thọ yểu để
lập mệnh. Muốn được như vậy, một mặt con người phải dựa vào mệnh trời, một mặt chủ
động biết "tồn tâm", "dưỡng tính". Con người ta sợ nhất là
không giữ được cái "tâm", hay đánh mất cái "tâm" (ta quen
gọi là lương tâm). Điều đó trái với mệnh trời, ắt sẽ chịu hậu quả. Mạnh Tử chỉ
rõ: "Quân tử sở dĩ khác người ta
là chỉ có sự giữ cho còn cái tâm mà thôi". Vậy muốn giữ được cái
"tâm" thì phải trở về đầu mối của cái "thiện". Mạnh Tử nói
thêm: "Quân tử lấy nhân mà giữ cho còn cái tâm, lấy lễ mà giữ cho còn cái
tâm".
Bản tính con người là thiện, nhưng vì đắm đuối vào vật
dục nên cái "tâm" mờ tối đi. Mạnh Tử cho rằng, người hèn kẻ ngu chỉ
khác nhau có mỗi một điều có giữ được cái "tâm" hay không mà thôi.
Người ta sở dĩ không làm được điều nhân nghĩa như bậc thánh hiền chỉ vì để vật
dục làm hại mất cái "tâm".
Như vậy, Mạnh Tử là người tiếp tục phát triển tư tưởng
"Thiên mệnh" của Khổng Tử và đi sâu tìm hiểu bản tính con người trên
cơ sở nhân học của Khổng Tử, từ đó đề ra thuyết "tính thiện" của con
người. Quan niệm về con người của Khổng Tử và Mạnh Tử về cơ bản là giống nhau.Tuy
nhiên, nếu Khổng Tử mới chỉ thừa nhận bản tính giống nhau của con người là ngay
thẳng, thì Mạnh Tử nói rõ tính thiện. Mạnh Tử coi "tính thiện" là do
tiên thiên trời phú, không thể cắt nghĩa được. Vì thế, Mạnh Tử khác Khổng Tử ở
chỗ ông tạo thêm cơ sở củng cố đạo đức Nho giáo do trời phú, tiên thiên siêu
việt không thể thay đổi được.
Chủ trương của Nho gia là hướng mọi hoạt động của con
người vào việc làm nhân nghĩa, làm cho đức nhân thống trị trong đời sống tinh
thần xã hội. Đức trị không có nghĩa là hoàn toàn phủ định hình pháp, nhưng chỉ
sử dụng hình pháp trong trường hợp không thể giáo hoá được nữa, dùng hình pháp
chỉ là điều bất đắc dĩ mà thôi; do đó, Mạnh Tử đã đề ra phương pháp tu luyện
đạo đức cho con người trên cái hướng của Khổng Tử là cái tốt thì giữ lấy, đừng
để mất đi.
Như vậy, học thuyết của cả Khổng Tử và Mạnh Tử đều nói
đến con người- xã hội, ít quan tâm đến con người- tự nhiên, chú ý đến con người
đạo đức hơn là con người trí tuệ. Nho học của
Khổng- Mạnh đánh giá con người chủ yếu là ở phẩm chất đạo đức chứ không
phải ở năng lực. Hai ông đều kêu gọi học tập để có đạo đức, đạo đức là cái gốc.
Đạo đức ở trong con người chứ không ở đâu xa.
III. Ảnh hưởng của
thuyết Khổng- Mạnh đối với quan niệm về con người trong xã hội Việt Nam truyền
thống
Ở Việt Nam, Nho giáo được truyền vào từ thời kì Bắc
thuộc. Cùng với việc chính quyền Trung Quốc tổ chức lại cơ cấu chính trị- kinh
tế- xã hội Việt Nam theo hình mẫu của mình, thì Nho giáo cùng với những biện
pháp truyền bá khác cũng đã ngấm sâu vào đời sống. Khi Việt Nam giành được độc
lập, nhưng cũng không ngay lập tức làm ngược lại những trật tự đã hình thành từ
trước, mặc dù đã có chủ quyền, nhưng tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội, văn hoá,
giáo dục thì vẫn còn kế tục. Để đáp ứng những nhu cầu của đất nước như thống
nhất để chống ngoại xâm, ổn định để củng cố và bảo vệ đất nước, thì việc giữ
nếp sẵn là thích hợp nhất. Cho nên tam giáo, đặc biệt là Nho giáo phát triển
mạnh cả ngay dưới thời kì độc lập.
Nho giáo đặc biệt có vị trí quan trọng, được đề cao,
chiếm ưu thế trong các mặt đời sống tinh thần của Việt Nam ở thời kì nhà Lý
(thế kỉ XI), do nhu cầu củng cố chế độ phong kiến. Có lẽ thời kì này, các quan
điểm về con người (đạo người), những chuẩn mực luân lý, lẽ sống...đã chịu nhiều
ảnh hưởng của học thuyết Nho giáo. Nổi bật nhất là những nhận thức về nhân dân,
về nguyện vọng, ý chí, vai trò, vị trí của họ đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Có thể kể đến những nhà tư tưởng tiêu biểu đương thời như Lý Công Uẩn, Lý
Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn...Họ đã bàn nhiều đến nhân dân và
coi đây là lực lượng quyết định đối với vận mệnh của đất nước. Lý Công Uẩn đã
nói: "Việc lợi như tuân lệnh trời, dưới theo ý dân, thấy thận tiện thì
thay đổi" nhằm mục đích "vận nước lâu dài, phong tục phồn
thịnh". Nhìn nhận đúng vai trò quan trọng của dân, Lý Thường Kiệt khẳng
định: "Đạo làm chủ cốt ở yên dân". Vua Trần Nhân Tông cũng là người
biết cảm động, thương xót trước những cảnh bần hàn của dân, " không nỡ để cho dân chìm trong bể
khốn cùng"
Tư tưởng đề cao sứ mạng của quần chúng nhân dân này của
thời Lý, Trần có nhiều điểm tương đối giống với những tư tưởng về đức trị trong
Nho giáo, liên quan đến quan niệm đạo đức trong học thuyết Khổng- Mạnh. Các
quan điểm về đạo đức là một nét nổi bật trong triết lý nhân sinh thời này.
Trong suốt thời kì từ thế kỉ XI- XIV, đạo trị nước yên dân có tính xuyên suốt,
chi phối . Mọi hoạt động chính trị- xã hội đều được hình thành trên cơ sở tư
tưởng về "đức trị". Thời kì này, các nhà tư tưởng Việt Nam quan tâm
đặc biệt đến các khái niệm đạo đức như : "trung nghĩa", " hiếu
thuận", "anh hùng", "danh dự", "sỉ
nhục"...v...v...
Những hành vi "trung quân" thống nhất với
"ái quốc"; người "trung quân", "ái quốc" cũng là
người anh hùng. Các quan niệm "vinh quang", "hổ thẹn", "tự
hào", về chữ "nghĩa", chữ 'tín" đều chủ yếu được hình thành
trên cơ sở tiêu chuẩn, giá trị đạo đức đó. Các khái niệm đạo đức này có mối
quan hệ thống nhất với nhau, chúng gần với các quan điểm đạo đức của Nho giáo,
nhưng mang nội dung yêu nước rõ rệt. Đây là nét bản sắc đặc thù của tư tưởng dân
tộc Việt Nam.
Trong " Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn,
ngoài những khái niệm đạo đức thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước, còn có những khái
niệm đạo đức gắn với tầng lớp trên, gắn với sứ mệnh quản lý, điều hành xã hội.
Đó là những khái niệm "khoan hoà", "nhân từ", "phục
huệ"...vv...Còn với Nguyễn Trãi, tư tưởng về con người của ông bộc lộ tập
trung trong tư tưởng nhân nghĩa và trong quan niệm "đạo làm người".
Ông muốn trên thì "vua thánh, tôi hiền", dưới thì "muôn dân
nơi thôn cùng xóm vắng không đâu còn một tiếng hờn giận, oán sầu". Có thể
nói, vấn đề con người luôn ở vị trí hàng đầu trong tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi, đặc biệt trong quan niệm "đạo làm người". Là một người
ủng hộ, tán thành đạo Nho, ông đã đi đến sự thấu đạt sâu sắc các nguyên tắc đạo
đức ở các lý lẽ về "cương thường". Trong quan niệm ngũ thường cũng
vậy, ông không chú ý tất cả, mà chỉ tập trung vào đức tính cần thiết và lấy
nhân, trí, dũng làm cơ sở, thước đo để đánh giá con người. Nhân là thương
người, nhưng không phải thương người chung chung, mà là thương dân- những con
người nghèo khổ. Trí không phải là học sâu, biết rộng mà phải biết vận dụng
sáng tạo những điều đã học vào sự nghiệp cứu dân, cứu nước. Dũng là người phải
có bản lĩnh trong các hoạt động thực tiễn, "trừ độc, trừ tham, trừ bạo
ngược", "có nhân có trí có anh hùng". Có thể nói, tư tưởng về
nhân, nghĩa, về đạo làm người của Nguyễn Trãi là một đóng góp đáng kể vào lịch
sử phát triển tư tưởng về con người ở Việt Nam.
Tư tưởng về con người của Lê Thánh Tông được thể hiện trong
đường lối trị nước với chủ trương "đức trị", nghĩa là lấy nền tảng
đạo đức xã hội làm cơ sở duy trì sự ổn định và sự thịnh vượng của chế độ phong
kiến. Ông chủ trương giáo dục con người theo những nguyên tắc đạo đức của Nho
giáo và lấy lễ- nghĩa làm yếu tố ràng buộc con người, duy trì sự bền vững của
triều đình phong kiến; từ đó, ông có tư tưởng coi trọng và sử dụng những người
tài, đức, xuất thân từ Nho giáo, coi trọng việc đào tạo người tài, coi trọng
nền tảng đạo đức của xã hội.
Từ thế kỉ XV- XVII, người ta không bàn nhiều đến vấn đề
đạo đức, mà bàn đến vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác như "đạo
người", "đạo trời", có nghĩa là tư tưởng về con người được nâng
lên một mức cao hơn. Chẳng hạn như tư tưởng nhân sinh, xã hội của Nguyễn Bỉnh
Khiêm: "thiên nhiên tương dữ hựu tương phù" (trời và người cùng quan
hệ với nhau, lại phù hợp nhau). Theo ông, con người là một bộ phận của tự
nhiên; giữa trời (tự nhiên) và con người có sự thống nhất. Mặt khác, ông coi sự
sinh ra của con người cũng tự nhiên như sự sinh ra của mọi giống loài; cái
quyết định sự phát triển của loài người cũng như mọi giống loài, của tự nhiên
được gọi là "đạo trời", từ đó để giải thích "đạo người"(tức
là những vấn đề về sự phát triển của xã hội loài người, về vận mệnh con người,
về đạo lý sống ở đời...vv...).
Ở thế kỉ XVII đã diễn ra nhiều biến động phức tạp trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng
về con người xung quanh những vấn đề nhân sinh, xã hội ...vì thế cũng có những biến
đổi lớn. Đánh giá về vai trò, vị trí của con người đối với thời cuộc cũng có
hai xu hướng tư tưởng khác nhau. Xu hướng thứ nhất coi trọng vai trò của dân,
coi trọng "lòng dân", "ý dân", đại diện tiêu biểu là Lê Quí
Đôn, Ngô Sĩ Nhiếp, Ngô Thì Nhậm. Các ông đều cho rằng: "Dân là gốc, gốc
vững thì nước mới yên" và "lòng dân yên định thì ý trời cũng xoay
chuyển". Xu hướng thứ hai cho rằng "ý trời" là yếu tố quyết
định, "lòng dân" cũng chỉ là sự thể hiện của "ý trời" mà
thôi, đại diện cho xu hướng này là Ngô Thi Sĩ, Phan Huy Ích....Ngô Thi Sĩ nói:
"Người ta sinh ra đều có mệnh, mệnh là do trời phú" và khuyên con
người nên "gặp sao, yên vậy", sống đời bình dị (Anh ngôn thi tập).
Phan Huy Ích thì cho rằng: "Trời vì dân đặt vua, đặt thầy, việc lớn vốn là
số mệnh" (Dụ am văn tập).
Điều đáng chú ý là ở giai đoạn lịch sử này, cách hiểu và
vận dụng giáo lý Nho giáo nói chung và học thuyết của Khổng- Mạnh nói riêng đều
xoay quanh những phạm trù đạo đức, tiêu chuẩn đánh giá con người.
Từ thế kỉ XIX, trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, vượt lên
trên tất cả các hệ thống quan điểm cũ của giai cấp phong kiến, đã xuất hiện
những tư tưởng mới. Thứ nhất , đó là
xu hướng vượt ra khỏi khuôn khổ bàn về con người trong những vấn đề luân
thường, đạo lý của tư tưởng Nho giáo, mà đề cập đến con người ở một phạm vi
rộng lớn hơn, trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội. Tiêu biểu là tư tưởng về
nguyên lý "trị đạo" xung quanh các vấn đề "ngũ luân",
" ngũ thường, hay trong các quan niệm về "thiên đạo" của Nguyễn
Đức Đạt đã lý giải mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, vấn đề số mệnh,
nguồn gốc sự sống, tinh thần và thể xác...Thứ
hai, đây là lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam xuất hiện hiện
tượng phê phán Nho giáo trong các vấn đề cơ bản: quan niệm về thiên đạo, quan
niệm về lịch sử, đạo đức và tri đạo, các quan niệm về nhân sinh có trong tất cả
những vấn đề đó; tức là những vấn đề về số mệnh", liên quan tới "mệnh
trời" (thiên đạo), vấn đề "thiên nhân tương cảm", vấn đề vai
trò, ảnh hưởng của con người đối với sự vận động của lịch sử , những vấn đề luân
thường, đạo lý, đường lối, phương châm trị nước gứan liền với nhân tố con
người....
Tóm lại, tồn tại ở xã hội Việt Nam hơn 10 thế kỉ, Nho
giáo đã ăn sâu vào ý thức ở mọi cấp độ tư tưởng cũng như tâm lý sinh hoạt đời
thường, tạo nên một sức cản vô cùng lớn đối với sự thâm nhập của tư tưởng mới.
Điều đó chủ yếu là do sự bảo thủ kiên cố của hệ tư tưởng phong kiến, đặc biệt
là của nhà Nguyễn. Tuy nhiên, thế kỉ XIX đã khép lại, đánh dấu sự kết thúc sứ
mệnh lịch sử của ý thức hệ phong kiến. Ý thức đạo đức, quan niệm nhân sinh và
toàn bộ tư tưởng con người phong kiến không còn phù hợp với giai đoạn lịch sử
mới nữa.
KẾT
LUẬN
Thời kì toàn thịnh nhất ở Trung Hoa cổ đại là thời kì
cuối chế độ chiếm hữu nô lệ và đầu chế độ phong kiến. Nó là bước quá độ diễn ra
trên các mặt về chính trị, kinh tế, vừa thoát khỏi chiến tranh liên miên kéo
dài hàng trăm năm với nhiều đau khổ cho người dân, nảy sinh nhiều bức xúc đòi
hỏi được giải quyết những vấn đề nhân sinh như số mệnh con người, đạo đức, giáo
dục, đặc biệt là vấn đề quản lý xã hội.
Thời Xuân Thu- Chiến quốc cũng là thời kì
xuất hiện nhiều học thuyết chính trị-xã hội, mà tiêu biểu là học thuyết
của Nho gia với việc lấy con người làm gốc đã đem lại một giá trị rất lớn cho
văn hoá thời cổ đại. Khi đề cập tới Nho giáo, không thể không nhắc tới tư tưởng
về con người của Khổng- Mạnh với học thuyết "Nhân" làm cơ sở nhân đạo
của Nho học, trong đó đạo đức con người là trung tâm. Đây là sự khám phá về con
người đã trở thành phương châm cho suy nghĩ, hành động của con người các thời
kì tiếp theo.
Qua tìm hiểu quan niệm con người của Khổng- Mạnh, có thể
thấy xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử xã hội đương thời, các ông mong muốn xây
dựng một trật tự xã hội theo một đẳng cấp nhất định, mà cơ sở của nó là lòng
nhân ái. Như vậy, con người ở đây không phải là cá nhân thuần tuý hay cá tính
con người. Điều đó không có nghĩa là con người không có mối quan hệ với tự
nhiên. Khái niệm các nhà Nho đưa ra như: "thiên nhân nhất thể" hay
"thiên nhân hợp nhất" là minh chứng cho việc con người là bộ phận của
tự nhiên, thống nhất với tự nhiên, từ đó gắn con người với tự nhiên, với mệnh
trời và chịu sự chi phối đó; trong quan niệm của Khổng- Mạnh về con người, thì
giá trị đạo đức được coi như giá trị nhân đạo sâu sắc nhất.
Tuy nhiên, cần xem xét con người đúng với thời kì lịch sử
của nó, để thấy được những tích cực và tiêu cực, nhằm hạn chế hay phát huy một
cách hiệu quả trong đời sống con người và xã hội.
Nho giáo nói chung và học thuyết của Khổng - Mạnh nói
riêng là một trong những di sản văn hoá lớn của Trung Hoa cổ đại và của loài
người. Những giá trị văn hoá đó đã trải qua hàng chục thế kỉ mà cho đến ngày
nay vẫn chứng tỏ ảnh hưởng to lớn của mình cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Tìm hiểu ảnh hưởng của học thuyết Khổng- Mạnh về con
người ở Việt Nam, cho thấy trong tiến trình lịch sử, quan niệm ấy đã in đậm dấu
ấn trong nhiều phương diện khác nhau của đời sống con người và xã hội. Hiện
nay, những quan niệm tinh hoa về đạo đức vẫn còn có những giá trị cần kế thừa. Hơn
bao giờ hết, những quan niệm tiến bộ trong Nho giáo vẫn chưa lỗi thời, nó rất
cần để xây dựng những con người văn minh, xây dựng một xã hội ổn định và trật
tự, làm cho đời sống con người ngày càng tốt đẹp hơn.
Download toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!