I.
Đặt vấn đề
Vấn đề ruộng đất trong lịch sử xã
hội Việt Nam nói chung và dưới thời Lý-Trần nói riêng luôn được các nhà khoa
học quan tâm, nghiên cứu. Dưới thời Lý-Trần, Việt Nam có nhiều loại ruộng
đất. Mặc dù có những loại ruộng đất mà thời Lý và thời Trần có sự khác nhau
(thời Trần có những hiện tượng mà thời Lý không có như bán quan điền cho dân
làm ruộng tư, hay chính thức ra đời loại hình điền trang), nhưng về tổng thể,
tuyệt đại đa số các thứ ruộng đều tồn tại ở hai thời Lý- Trần. Vì vậy, nhìn
chung, toàn bộ ruộng đất hai thời kì này có thể được xem xét trong cùng một
thời kì lớn, gồm nhiều thế kỉ liên tục, từ thế kỉ thứ X- XIV. Tuy vậy, cũng cần
phải chú ý thích đáng đến tính lịch sử của mỗi loại ruộng đất.
Việc tìm hiểu kết cấu các loại ruộng
đất dưới thời Lý- Trần tương đối phức tạp, nhưng qua đó có thể xác định tính
chất và mức độ phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam giai đoạn này.
II.
Phân loại sở hữu ruộng đất dưới thời Lý- Trần
1. Sở hữu nhà nước
a.
Bộ phận ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý
Tịch
điền là loại ruộng nghi lễ mà hoa
lợi chủ yếu dùng vào việc cúng tế lớn của Nhà nước trung ương. Nghi lễ nhà Vua
đi "cày tịch điền" phổ biến dưới triều Lý, có tác dụng khuyến khích
lao động nông nghiệp trong buổi đầu xây dựng chế độ phong kiến dân tộc. Diện
tích ruộng tịch điền nói chung không rộng
và không nhất thiết phải cố định ở một nơi - đó là đặc điểm của thời Lý. Sang
đến triều đại nhà Trần, nghi lễ " Vua cày tịch điền" biến thành cúng
tế đơn giản, thường thì Vua không đi cày mà chỉ một lần sai tế thần và tôn thất
đi gặt lúa tịch điền (công việc này mang tính chất như đi cày tịch điền) thì
diện tích ruộng tịch điền càng thu nhỏ hơn. Cũng có ý kiến cho rằng: do
cày tịch điền dưới thời Lý- Trần là một nghi lễ tượng trưng và nghi lễ đó có
thể tổ chức trên bất kì loại ruộng đất nào của nhà nước, nên tịch điền không
phải là loại ruộng hiện thực hoặc nếu có thì diện tích cũng quá nhỏ.
Sơn
lăng so với tịch điền thì diện tích
ruộng sơn lăng còn nhỏ hơn, vì đây chỉ là ruộng đất lăng tẩm của các vua,
chuyên lấy hoa lợi vào việc bảo vệ và sửa chữa các lăng. Thời Lý, nhà nước có
một ít ruộng sơn lăng ở Đình Bảng (Hà Bắc), thời Trần có ở Thái Đường
(Thái Bình)...Khác với tịch điền, ruộng sơn lăng không mất đi mà được bảo lưu dưới hình thức ruộng tế hay
ruộng công, do làng xã quản lý. Ruộng sơn lăng thường được chọn đặt ở quê hương
nhà vua.
Nhìn chung, ruộng đất tịch điền và
sơn lăng không có ý nghĩa nhiều lắm
trong vấn đề ruộng đất.
Dưới thời Lý -Trần, việc tổ chức
khai hoang, lập đồn điền đã được tiến
hành. Theo sử sách ghi chép lại, những tù binh bị bắt trong các trận đánh nhau
với nhà Tống, nhà Nguyên hay Chămpa đều được đưa đi khai hoang, lập làng. Ở
thời Lý, chính sách đồn điền có lẽ chưa được đặt ra cụ thể, nhưng sang thời
Trần, ngoài việc cho tù binh khai hoang lập làng, Nhà nước còn lập đồn điền.
Việc đặt các chức quan chánh phó đồn điền sứ chứng tỏ điều đó.
Ruộng
quốc khố hay quan điền là một trong hai loại ruộng công (ruộng thuộc sở
hữu của Nhà nước, đã khai khẩn hoặc còn bỏ hoang) trực tiếp do Nhà nước quản
lý, canh tác bằng trâu cày, nông cụ của Nhà nước, với các lực lượng sản xuất nô
tì thuộc nhà nước. Vì vậy, tô thuế ruộng quốc khố thường vào loại cao nhất. Ở
đây, tô và thuế nhập làm một. Điều đó cho thấy tính chất sở hữu của nhà nước
và quan hệ bóc lột trong loại ruộng này.
Tóm lại, dưới thời Lý- Trần, Nhà
nước Trung ương nắm trực tiếp trong tay một số ruộng đất, chủ yếu nhằm phục vụ
các nghi lễ và làm nơi tù đầy những người bị tội. Đây là bộ phận ruộng công được
duy trì lâu dài.
b.
Bộ phận ruộng đất do làng xã quản lý hay ruộng công làng xã
Ruộng đất công trong làng xã vốn
thuộc sở hữu của công xã thời nguyên thủy và mỗi làng xã có một bộ phận ruộng
đất công riêng. Đây là bộ phận quan trọng nhất trong trong số ruộng sở hữu của
nhà nước. Thời phong kiến độc lập, ruộng đất công của làng xã thuộc quyền sở
hữu của Nhà nước trung ương. Diện tích của nó khá lớn ở thời Trần. Chế độ
sở hữu này có tính chất gián tiếp (qua chế độ tô thuế) và tối cao (địa bạ làng
xã kê khai và báo lên), song đây không phải là một trạng thái ổn định, bất
biến. Trên bước đường phát triển của mình, Nhà nước Trung ương đã tìm cách can
thiệp sâu vào nội bộ làng xã. Bằng chính sách phong cấp thực ấp, thái ấp, thang
mộc cho các quí tộc, công thần, các quan cao cấp, cung phi, công chúa, phò mã,
Nhà nước Lý-Trần đã khiến nhiều làng xã rơi vào quyền chiếm hữu trực tiếp của
một quí tộc hay quan lại cao cấp. Dưới thời Lý- Trần, chế độ phong cấp ruộng
đất đã được nhà nước quân chủ thực hiện với các tên như: thực ấp, thực phong,
thang mộc ấp, thác thao điền, thái ấp.
Đối tượng được phong cấp là một số
người trong hàng ngũ quan lại, quí tộc, quan chức và người có công. Một trong
những loại ruộng được phong cấp là thái
ấp. Có nhiều ý kiến khác nhau về thái ấp. Có ý kiến cho rằng thái ấp là
thác thao điền và cũng là thực phong, là phong cả đất lẫn nông dân. Nông dân
trong thái ấp không có tên trong trương tích nhà nước mà lệ thuộc vào chủ thái
ấp. Ý kiến thứ hai cho rằng thái ấp cũng chính là thực ấp, là khu vực mà người
được ban có quyền thu thuế để hưởng lợi và ý kiến thứ hai này có vẻ hợp lý hơn.
Thác
thao điền cũng là đất thuộc ruộng phong, là
ruộng ném dao, xuất phát từ điển tích cấp ruộng của vua LýThái Tông cho đô
thống thượng tướng quân Lê Phụng Hiểu. Đây là một loại ruộng phong cấp thuộc sở
hữu của nhà nước, bởi vì vua chỉ lấy đất công ban cho. Đất này được truyền đời
kế tiếp nhưng cũng chỉ trong một triều đại mà thôi. Dĩ nhiên, thác thao điền
không được phép nhượng bán cho người khác, nó là ruộng đất thế nghiệp chứ không
phải là ruộng đất tư hữu. Có ý kiến cho rằng: so với thuế của ruộng quốc
khố, thì thuế ruộng thao điền nhẹ hơn từ 6 đến 12 lần, nhưng theo Đại Việt sử
kí thì tất cả các loại ruộng phong đều được miễn tô thuế cả. Thác thao điền có
tác dụng phát triển mối quan hệ sản xuất có bóc lột địa tô trong khuôn khổ về
quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất
Chế độ ban thực ấp, thực phong chỉ có ở thời nhà Lý. Sang thời Trần không thấy
xuất hiện. Có lẽ bởi vì từ năm 1254, Nhà nước bán ruộng công và sau đó, năm
1266 Nhà nước cho phép vương hầu lập điền trang, cho nên chế độ thực ấp, thực
phong không còn vai trò gì nữa. Trong thời Lý, chế độ này đã phát triển và tạo
điều kiện để xây dựng một chế độ quân chủ tập trung bước đầu phong kiến hoá,
nhưng từ thời Trần trở đi, chế độ đó đã nhường vai trò của mình cho chế độ điền
trang.
Tóm lại: các loại thái ấp, thực ấp,
thực phong, thang mộc ấp đều không phải là các hình thức sở hữu hay chiếm hữu
ruộng đất - đó là loại chiếm hữu địa tô của chế độ quân chủ tập trung. Sự chiếm
hữu địa tô này không biểu thị quyền sở hữu ruộng đất vì nó không gắn liền trực
tiếp với ruộng đất cụ thể được xác định. Không thể coi các loại ruộng đất này
là ruộng đất cụ thể, cuối cùng nó vẫn thuộc sở hữu của nhà nước. Có thể xếp nó
vào ruộng công làng xã, dưới sự quản lý của nhà nước.
Loại ruộng phong cấp này có thể chia
làm hai loại: loại phong cấp vĩnh viễn (ý nghĩa triều đại) và loại phong cấp
một đời hay theo chức vụ. Thời Lý, thác thao điền là loại phong cấp vĩnh viễn,
hay loại ruộng nhà Trần ban cho chùa Quỳnh Lâm và sư Pháp Loa. Nhà nước cũng
lấy ruộng công của mình để ban làm ruộng tế cho các đền thần. Về nguyên tắc,
cách phong cấp này làm mất đi quyền sở hữu của nhà nước đối với số ruộng đã
phong cấp và cách phong cấp này làm cho tổng diện tích đất công của nhà nước
giảm xuống một cách đáng kể và đó là một hướng
phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất.
Phần chủ yếu của bộ phận ruộng đất công được giao cho làng xã chia nhau
cày cấy, nộp tô trực tiếp cho nhà nước. Đối với số ruộng đất này, nhà nước đã
cử những chức giám đương nằm ở các địa phương trông coi việc thu tô, các vua Lý
- Trần thường đi xem cày gặt ở các ruộng công của mình. Phương thức thu tô ở
những ruộng đất công đó được qui định một cách khá chặt chẽ và biến nhà nước thành một địa chủ thực sự. Các
điều qui định về phép quân điền cũng phân biệt rất rõ hai loại ruộng công trong
làng xã và cấm ngặt việc lấy ruộng công của nhà nước để quan cấp cho nông
dân.Tóm lại, bộ phận ruộng công của làng xã thuộc quyền sở hữu hoàn toàn của
Nhà nước trung ương.
2. Ruộng đất tư nhân
Ruộng đất thuộc sở hữu của Nhà vua
trong thực tế giao cho các công xã nông thôn quản lý, các thành viên chia nhau
cày cấy và làm nghĩa vụ tô thuế không còn phù hợp nữa, do nhu cầu phải nâng cao
hiệu suất nông nghiệp, do phương thức tổ chức quản lý canh tác, do phân hoá xã
hội...dẫn đến sự giải thể của các công xã nông thôn và đi liền với nó là sự
xuất hiện của sở hữu tư nhân, ghi dấu
một bước phát triển của xã hội. Có
thể nhận thấy rằng, chính nhà nước quân
chủ đã tạo điều kiện và khẳng định quyền tư hữu ruộng đất. Năm 1135, Lý
Thần Tông đã xuống chiếu: "Những người bán ruộng ao không được bội tiền
lên mà chuộc lại, làm trái thì phải tội". Quyền tư hữu ruộng đất qua lệ
này được khẳng định, thừa nhận.
Nhà nước Lý- Trần tạo điều kiện để
sở hữu tư nhân về ruộng đất phát triển bằng nhiều cách: cho phép mua bán, chuộc
theo luật lệ, bán ruộng công cho dân, cho phép vương hầu, quí tộc, phò mã lập
điền trang...Rõ ràng, trên lý thuyết, ruộng đất là của nhà vua, nhưng trên,
thực tế người dân có quyền sở hữu bao gồm: sử dụng, hưởng hoa lợi, mua bán, cầm
nhượng, thừa kế, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ - đây là điều đặc biệt trong
chính sách ruộng đất của nhà nước Lý- Trần. Với chính sách này, người
nông dân là chủ nhân phần ruộng đất của mình (ruộng tư). Nhưng nó cũng dẫn đến
những phân hoá xã hội làm một bộ phận
nông dân biến thành nô tì và sự thu hẹp
của ruộng đất công do làng xã quản lý- chỗ dựa của nhà nước quân chủ trung ương
tập quyền. Trên đại thể thì chính sách này mang nội dung tích cực, tác động
mạnh đến sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích canh tác, năng xuất cao hơn,
do đó sản lượng nông nghiệp toàn xã hội tăng.
Một điều nữa cần lưu ý: tuy ruộng
đất tư hữu là ruộng đất trong tay tư nhân, có quyền đem nhượng bán và xét về
mặt chiếm hữu địa tô thì kẻ sở hữu ruộng đất cũng là kẻ chiếm hữu toàn bộ địa
tô, nhưng trong điều kiện nhà nước quân chủ chuyên chế tập trung, thì nhà nước
đóng vai trò quan trọng trong sở hữu ruộng đất và địa tô, mỗi cá nhân đều phải
tuân phục nó. Do vậy, mọi thứ ruộng đất (trừ các biệt lệ) đều phải nộp thuế cho
nhà nước, nên chắc chắn nhà nước chiếm hữu một phần địa tô. Vì lẽ đó, quyền sở
hữu tư nhân về ruộng đất trong khuôn khổ nhà nước quân chủ có sự giới hạn vê mặt thuế lệ. Đây là sự
chiếm hữu không phải toàn bộ địa tô mà chỉ đại bộ phận địa tô mà thôi.
Nói chung, vấn đề ruộng đất tư dưới
thời Lý-Trần bao hàm những điều kiện về mua bán, về chiếm hữu đại bộ phận địa
tô, để khẳng định quyền tư hữu về mặt thuế lệ, về giới hạn trong khuôn khổ của
sở hữu nhà nước về mặt ruộng đất.
Một trong những hình thức sở hữu
trong ruộng đất tư nhân là điền trang.
Người được phép lập điền trang là vương hầu hoặc tôn thất, tiến hành khai hoang
bằng lực lượng nô tì, khẩn hoang ở cả miền biển lẫn miền sông. Đây là ruộng đất
thực sự của các vương hầu, quí tộc, tôn thất được nhà nước cho phép thành lập
lần đâu tiên vào năm 1226. Khu vực lập điền trang không hạn chế diện tích, lực
lượng sản xuất trong điền trang là tư nô của các chủ điền trang. Thời Trần,
cùng với quyền hạn về tính độc lập của các vương hầu ở từng địa phương, sự hình
thành điền trang tư nhân của quí tộc Trần cho thấy rõ khuynh hướng muốn vươn tới sở hữu phong kiến trong khuôn khổ một
nhà nước tập quyền.
3. Ruộng đất nhà Chùa (ruộng
tam bảo)
Sở dĩ phải đặt ruộng chùa thành một
mục riêng vì ruộng đất của nhà chùa thuộc cả hai loại hình sở hữu trên.
Phật giáo là tôn giáo phát triển thịnh
hành nhất ở thời Lý- Trần. Để sống và tiến hành các nghi thức tôn giáo, nhà
Chùa thường có trong tay ruộng đất để sử dụng hoa lợi, ruộng đất có thể lên tới
hàng mấy trăm mẫu, hàng nghìn mẫu, không nhất thiết phải tập trung quanh chùa.
Ruộng đất nhà chùa do nhiều nguồn đưa lại: do tư nhân cúng, vua ban cấp hay do
làng xã góp vào, trích từ ruộng công của làng, hoặc có thể do bản thân nhà chùa
mang tiền bạc quyên góp được, tậu ruộng cho mình. Ruộng chùa có thể thuộc những
loại sở hữu khác nhau: từ ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý được vua ban
tặng (nhà chùa chỉ là người chiếm hữu), ruộng chùa thuộc đất công làng xã và
ruộng chùa thuộc sở hữu tư của chùa (cá nhân cúng, chùa tự mua). Ruộng nhà chùa
là một loại ruộng rất đa dạng, thực
tiễn có bao nhiêu hình thái sở hữu, bao nhiêu quan hệ sản xuất thì ruộng chùa
cũng có bấy nhiêu hình thức và quan hệ sản xuất. Ruộng đất nhà chùa biểu hiện chằng chéo nhiều hình thức sở hữu và
quan hệ sản xuất trong thiết chế kinh tế xã hội thời Lý- Ttrần. Nó cũng đánh
dấu sự hưng thịnh của Phật giáo gắn liền với chính quyền quân chủ tập trung và
cuối cùng nó bao hàm những nét đổi mới trong quan hệ sản xuất. Tính chất đa
dạng và nhiều chiều đó của ruộng nhà Chùa có tác dụng lâu dài duy trì các chùa
ở các làng xã, trải qua bao thay đổi về chính trị, tôn giáo.
III.
Kết luận
Sau khi xem xét các hình thái sở hữu
các loại ruộng đất nói trên, có thể sơ bộ hình dung kết cấu sở hữu ruộng đất
thời Lý- Trần với hai loại chính như sau: sở
hữu nhà nước (sở hữu trực tiếp của nhà nước và sở hữu nhà nước do làng xã
quản lý), sở hữu tư nhân. Ngoài ra,
các hình thức cấp, phân đất như: thái ấp, thực ấp, thực phong không phảỉ là cấp
phát ruộng đất thực sự, mà chỉ là hình thức ăn tô thuế. Các hình thức này nếu
có quan hệ với ruộng đất thì ruộng đất ấy vẫn nằm trong số sở hữu nhà nước.
Hai loại sở hữu trên đã tồn tại cùng nhau không riêng thời Lý-
Trần mà suốt trong lịch sử Việt Nam. Chỗ khác biệt của chế độ ruộng đất giữa
các thời đại chủ yếu là khác biệt về cơ
chế vận hành của hai loại sở hữu đó. Về thứ tự xuất hiện của chúng, hiện
nay chưa có những kết luận chính xác, nhưng có điều chắc chắn, không bao giờ hai hình thức sở hữu đó hoàn
toàn độc lập với nhau; trái lại, chúng tác động đến nhau và cùng tồn tại, có thể biến đổi, hoán vị cho nhau- ruộng
nhà nước có thể biến thành ruộng tư, ruộng làng xã cũng vậy; ruộng tư cũng có
thể sung công và biến thành ruộng làng xã, song hiếm thấy ruộng nhà nước biến
thành ruộng làng xã, trong khi những trường hợp ngược lại vẫn xảy ra. Điều này
cho thấy ở thời Lý-Trần, chiếm địa vị thống
trị là sở hữu nhà nước bắt đầu phong kiến hoá, trong đó bộ phận ruộng đất
do làng xã quản lý chiếm đa số. Chiếm địa
vị mở đường là sở hữu tư nhân. Sở hữu
nhà nước đóng vai trò trung tâm, khẳng định, còn sở hữu tư nhân đóng vai
trò phủ định, làm tiền đề cho sự phát triển. Đây là một
trong những căn cứ để có thể khẳng định: dưới thời Lý-Trần, từ thế kỉ X-XIV là giai đoạn hình thành và xác lập của chế độ
phong kiến Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tìm về cội nguồn, T1, Phan Huy Lê. Nxb. Thế giới. 1998.
4.
Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam,
T2, Phan Huy Lê. Nxb. Giáo dục. HN
1960.
5.
Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam,
T3, Phan Huy Lê. Nxb. Giáo dục. H.
1961.
6. Tìm hiểu kế sách giữ nước thời Lý- Trần, Nxb. CTQG. H.1994.
8. Lịch sử chế độ phong kiến, T1, Trần
Quốc Vượng. Nxb. Giáo dục. HN 1960.
9. Tìm hiểu lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam, Minh Tranh,
Nxb. Sự thật. HN 1957.
10. Chế độ phong kiến ngăn cản bước tiến
của xã hội Việt Nam, Nam Mộc, Nxb. Sự thật. H. 1955.
11.
Một số tài liệu thực tế về lịch sử xã hội Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1981.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!