Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Với chiến thắng lịch sử Mùa Xuân
1975, Việt Nam đã hoàn toàn độc lập; khát vọng bấy lâu về một đất nước thống
nhất, vẹn toàn của cả dân tộc đã thành hiện thực. Việt Nam
xây dựng lại đất nước trong điều kiện khu vực, thế giới đang có những thay đổi
quan trọng. Từ cuối những năm 70 (XX), so sánh lực lượng trên thế giới
về quân sự có sự thay đổi, Liên Xô đã giành
được thế cân bằng về vũ khí chiến lược với Mỹ, dẫn đến giai đoạn hòa
hoãn giữa các nước lớn: Hòa hoãn Mỹ - Xô, Tây Âu - Liên Xô, Mỹ - Trung Quốc,
Tây Âu, Nhật Bản với Trung Quốc. Thiện chí và nỗ lực giảm căng thẳng của các
nước lớn đứng đầu mỗi cực thể hiện qua những cuộc gặp cấp cao giữa Liên Xô và Mỹ,
cải thiện đáng kể quan hệ giữa các nước thuộc hai khối XHCN và TBCN.
Cuối tháng 7-1975, diễn ra
cuộc gặp thượng đỉnh giữa các nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ
các nước châu Âu tại Helsinki và việc ký kết Định ước Helsinki[1] đánh dấu một bước phát
triển mới trong quan hệ giữa các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã
hội. Trong nội bộ hệ thống các nước tư bản cũng có sự thay đổi, Tây Âu và Nhật
Bản trở thành những trung tâm kinh tế mới cạnh tranh gay gắt với Mỹ, sự gắn bó
với Mỹ về chính trị, quân sự, ngoại giao không còn chặt chẽ như trước. Xu hướng
độc lập với Mỹ trong thế giới phương Tây tăng lên.
Sau chiến tranh Việt Nam, Mỹ điều chỉnh chiến
lược toàn cầu, song Đông Nam Á vẫn là một mắt xích quan trọng. Nét mới trong chiến lược của Mỹ “sau Việt Nam” là
giảm cam kết ở bên ngoài, thúc đẩy hòa hoãn với các đối thủ chính, tập trung ưu
tiên giải quyết các vấn đề trong nước để củng cố địa vị trong hệ thống TBCN.
Mặt khác, ở vào thế phải đối phó cùng một lúc với suy thoái kinh tế và khủng hoảng
chính trị, Mỹ không thể giữ thái độ đối đầu gay gắt, mà thực hiện chính sách
hoà hoãn với những nước có vai trò, tác động trong từng khu vực, vừa kiềm chế,
vừa lôi kéo để giữ nguyên trạng ở các khu vực. Sự điều chỉnh chiến lược
“sau Việt Nam” của Mỹ kéo theo sự
điều chỉnh chiến lược của các nước lớn khác đã nói lên tác động to lớn của việc
kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Nhà sử học Mỹ Gabriel Kolko đã viết về điều đó
như sau: “Chiến tranh Việt Nam là một sự kiện vĩ đại vượt quá phạm vi một nước
và vượt quá cả thời gian và nó phản ánh, dưới hình thức rõ nét nhất, những sôi
động và xu hướng cơ bản trong quá trình lịch sử kể từ năm 1946. Đó không phải
là ngẫu nhiên mà là kết quả lôgic của lòng tham, sức mạnh và nhược điểm đương
thời của Mỹ”[2]. Trong lúc đó, Liên Xô tăng cường mở rộng ảnh hưởng
ở châu Mỹ La tinh, châu Á, châu Phi, đặc biệt là ở các nước thuộc khối thuộc
địa của Bồ Đào Nha mới giành được độc lập và quan tâm nhiều hơn đến Đông Nam Á,
châu Á - Thái Bình Dương. Những năm 70 (XX), độc lập dân tộc đã trở
thành một xu thế mạnh mẽ, tuy nhiên, các
nước mới độc lập đang phải đấu tranh chống nghèo nàn lạc hậu, khủng hoảng chính
trị. Ở hầu hết các nước XHCN xảy ra tình trạng quan liêu trong quản lý,
trì trệ trong xây dựng kinh tế, nhân dân thờ ơ, thụ động. Đa số các nước XHCN
đều trong tình trạng năng suất lao động thấp (kém khoảng 4 lần so với các nước
tư bản). Xuất khẩu của các nước XHCN được coi là phát triển như Cộng hòa Dân
chủ Đức, Tiệp Khắc, Hungari, Liên Xô... chỉ
chiếm từ 12 đến 15% tổng thu nhập quốc dân (trong khi Mỹ và phương Tây
chiếm tới 40% tổng thu nhập quốc dân).
Những khó khăn về kinh tế dẫn đến những mâu thuẫn gay gắt về chính trị - xã hội
trong nội bộ các nước XHCN. Đây là thời kỳ tiền khủng hoảng của cả hệ thống
XHCN. Những khó khăn đó càng thêm gay gắt khi cuộc cách mạng KHCN, quá trình
quốc tế hóa nền sản xuất, phân công lao động quốc tế diễn ra mạnh mẽ trên thế
giới, làm cho khoảng cách giữa các nước XHCN và các nước TBCN ngày tăng.
Trong bối cảnh quốc tế như trên, sau khi tiến
hành thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, Đảng, Nhà nước Việt Nam quyết định
chuyển đất nước sang một giai đoạn mới: Quá độ lên CNXH trên phạm vi cả nước. Đi lên CNXH sau năm 1975 là bước phát triển kế tiếp
mà Đảng, Nhà nước Việt Nam đã lựa chọn sau ngày độc lập. Song, việc lựa chọn mô
hình và bước đi cho phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế của Việt Nam,
những thay đổi, biến động trên thế giới là thách thức lớn đang đặt ra. Trước
yêu cầu đó, việc tận dụng tốt nhất hoàn cảnh khách quan thuận lợi, chuyển hóa
sức mạnh của Việt Nam từng được phát huy trong CMDTDCND thành sức mạnh hiện
thực trong công cuộc tái thiết đất nước trở thành yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng.
Nhằm tạo dựng và tranh thủ những điều kiện
quốc tế thuận lợi cho mục tiêu phát triển đất nước, trọng tâm của đường lối đối
ngoại được xác định là “tiếp tục kề vai sát
cánh với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và tất cả các dân tộc trên thế giới
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”[3].
Tư tưởng cơ bản, thấu suốt trong lĩnh
vực đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam là: "Kết hợp nhuần nhuyễn chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữ vững độc lập, tự
chủ về chính trị và chủ quyền dân tộc, tiến nhanh đến độc lập tự chủ về kinh
tế, tích cực đoàn kết các lực lượng xã hội chủ nghĩa và độc lập dân tộc"[4].
Nằm trong định hướng đối ngoại chung ấy,
Đảng, Nhà nước Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường
đoàn kết, hợp tác hữu nghị với các nước XHCN, trong đó có Liên Xô và Trung
Quốc: "Đối với hệ thống xã hội chủ nghĩa, chúng ta ra sức tăng cường đoàn
kết hữu nghị, tăng cường hợp tác kinh tế với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã
hội chủ nghĩa anh em khác"[5].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng CSVN (14-12-1976), chủ trương
tăng cường đoàn kết với các nước XHCN (trong đó có Trung Quốc) một lần nữa được
nhấn mạnh lại: “Ra sức củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ
hợp tác giữa nước ta với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em, làm hết sức
mình để góp phần cùng các nước xã hội chủ
nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khôi phục và củng cố đoàn kết,
tăng cường ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau”[6].
Sau khi miền
Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, cuối tháng 9-1975, đoàn đại biểu cấp
cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam do Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng Lao động Việt
Nam Lê Duẩn dẫn đầu đã sang thăm Trung Quốc, để tỏ lòng biết ơn chân thành của
Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung
Quốc về sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Chuyến đi này cũng còn nhằm mục đích tiếp tục củng cố và tăng
cường hơn nữa quan hệ giữa hai nước. Cũng lưu ý rằng, chuyến thăm viếng nước
ngoài đầu tiên sau Đại thắng Mùa Xuân 1975 mà Đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và
Chính phủ Việt Nam thực hiện là đến Trung Quốc. Điều này chứng tỏ Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hợp tác hữu nghị với
Trung Quốc.
Nhân dịp này, Chính phủ Trung Quốc cam kết
thực hiện các khoản viện trợ đã hứa cho Việt Nam trước năm 1975 để xây dựng 111
công trình.
Tháng 10-1976, Trung Quốc giúp Việt Nam một
số vũ khí phòng thủ. Năm 1977, Trung Quốc cho Việt Nam vay 900.000 tấn lương
thực[7].
Mặc dù vậy, phải nhận
thấy rằng, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong những năm 1975-1978 cũng đã bộc
lộ nhiều “lỗ hổng” và mang dáng vẻ lạnh nhạt. Dường như không phải ngẫu nhiên
mà đúng lúc Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn đang bắt đầu
chuyến thăm cấp Nhà nước tại Bắc Kinh, tờ Nhân
dân nhật báo ngày 18-9-1975 đã đăng 6 ảnh lớn về các đơn vị quân đội Trung
Quốc ở Hoàng Sa[8].
Tương tự, một ngày sau khi phái đoàn Việt Nam rời khỏi Trung Quốc, các bức ảnh
lớn về Hoàng Sa tiếp tục xuất hiện trong những tờ báo uy tín tại Bắc Kinh. Nhìn
chung, chuyến thăm Bắc Kinh tháng 9-1975 của Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng Lê Duẩn
được các nhà quan sát coi như một thất bại chính trị - ngoại giao([9]),
bởi mặc dù được tiếp đón linh đình, song phái đoàn đã rút ngắn thời gian lưu
lại tại Bắc Kinh và đã không mở tiệc chiêu đãi để cảm tạ lòng hiếu khách của
người Trung Hoa như vẫn thường thấy trong thông lệ ngoại giao. Phái đoàn đã rời
Bắc Kinh đúng hai ngày trước khi kỷ niệm ngày Quốc khánh Trung Quốc (1-10), mà
không đưa ra bất cứ một phát biểu hoặc thông cáo nào về cuộc viếng thăm. Tiếp
đó, ngày 26-11-1975, sau khi Đoàn Việt Nam kết thúc chuyến thăm hữu nghị Liên
Xô, tờ Quang minh nhật báo có bài
viết về Hoàng Sa và Trường Sa với lời báo động không giấu giếm: "Một số
đảo vẫn chưa trở về trong tay nhân dân Trung Hoa… Tất cả các đảo thuộc về Trung
Hoa đều phải trở về lãnh thổ của Tổ quốc"[10].
Tuy hai nước còn cố gắng
kiềm chế, tránh xung đột, nhưng từ giữa những năm 1976, quan hệ Việt - Trung đã
xấu đi rất nhanh với các tranh cãi liên quan đến vấn đề biên giới, vấn đề người
Việt gốc Hoa và đặc biệt về vai trò của Liên Xô trong các vấn đề thế giới, khu
vực. Trong bài phát biểu của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn tại Hội nghị lần
thứ 25 BCHTƯ Đảng CSVN (họp từ ngày 24-9 đến 24-10-1976) xuất hiện những cụm từ
nhiều hàm ý: “Ta thắng là nhờ có sự giúp đỡ tích cực của Liên Xô, Trung Quốc,
của phe ta, của thế giới, Liên Xô và Trung Quốc giúp ta rất nhiều. Không có sự
giúp đỡ của họ ta khó lòng thắng được. Ta phải luôn luôn biết ơn Liên Xô, Trung
Quốc và các nước anh em khác đã giúp ta; ta nói cho con cháu ta mãi mãi nhớ ơn
họ. Nhưng chúng ta phải độc lập, tự chủ bởi vì trong quan hệ quốc tế, mỗi nước
có lập trường riêng do vị trí và quyền lợi mỗi nước một khác, cho nên giữa các
nước anh em, khó có sự nhất trí với nhau, có khi về những vấn đề rất quan trọng
đối với một nước trong phe, cũng không nhất trí được”[11].
Tháng 2-1977, Trung Quốc ngỏ ý với
Việt Nam rằng, không sẵn sàng cung cấp viện trợ
cho Việt Nam trong công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh[12].
Cũng vào thời kỳ này, biên giới Việt Nam -
Campuchia liên tục có xung đột. Đảng, Chính phủ Việt Nam không dưới một lần đề
nghị Trung Quốc giúp đỡ dàn xếp, mong muốn thông qua hợp tác với Trung Quốc tác
động tới phía Campuchia, song Trung Quốc đã im lặng. Việc Trung Quốc từ chối
ủng hộ Việt Nam trong việc tìm kiếm các phương thức giải quyết căng thẳng biên
giới với Campuchia càng cho thấy những vết nứt sâu hơn trong quan hệ hai nước.
Điều đáng chú ý là trong thời điểm phức tạp, nhạy cảm của quan hệ Việt Nam -
Campuchia, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Hoàng Hoa đã chính thức phát biểu
(30-7-1977): “Chúng tôi ủng hộ lập trường chống đế quốc xét lại Liên Xô của
Campuchia... và sẽ không thể ngồi nhìn bất cứ sự can thiệp nào đối với chủ
quyền Campuchia hoặc thèm khát lãnh thổ nào bởi đế quốc xã hội. Chúng tôi sẽ
ủng hộ Campuchia trong cuộc đấu tranh và có các hành động nhằm bảo vệ lãnh thổ,
chủ quyền quốc gia Campuchia bằng mọi sự giúp đỡ có thể”[13].
Ngày 20-11-1977, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn sang
thăm Trung Quốc một lần nữa. Đây được coi như một nỗ lực, nhằm hàn gắn những
vết rạn nứt trong quan hệ với Trung Quốc, thực hiện việc cố gắng cân bằng quan
hệ giữa Việt Nam - Liên Xô; Việt Nam - Trung Quốc. Tuy nhiên, giới quan sát
nhận thấy rằng, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã được đón tiếp với một thái độ vừa
phải (nếu không muốn nói là lạnh nhạt), trái ngược với sự trọng thị và nồng
nhiệt được dành cho Polpot trước đó một tháng[14].
Chuyến viếng thăm Trung Quốc lần này của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn chẳng những
không làm cho quan hệ hai nước ấm lên, mà bộc lộ những bất đồng mới. Trong cuộc
tiếp kiến giữa Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và Chủ tịch Hoa Quốc Phong, mặc dù hai
bên đều tránh nói đến một vấn đề tế nhị trong quan hệ hai nước là những tranh
chấp về Hoàng Sa, Trường Sa, song sự khác biệt về quan điểm trong việc nhìn
nhận thế giới, chiến tranh và hòa bình đã bộc lộ ngày càng rõ. Bí thư thứ nhất Lê
Duẩn bày tỏ quan điểm không tham gia vào cuộc tranh cãi Trung - Xô thông qua
việc "chân thành cảm ơn Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác về sự
nhiệt tình, giúp đỡ to lớn đối với Việt Nam". Quan hệ có vẻ căng thẳng
hơn, khi Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đề nghị những nhà lãnh đạo Trung Quốc yêu cầu
Campuchia Dân chủ chấp nhận một giải pháp cho cuộc xung đột trên tuyến biên
giới Tây Nam, nhưng Trung Quốc đã không mấy mặn mà. Cuối cùng, cũng giống như
chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 9-1975, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cũng đã ra về
mà không mở tiệc khoản đãi những người Trung Hoa anh em.
Về phía Trung Quốc, từ cuối năm 1977, các văn kiện của Quân khu
Quảng Châu luôn nhấn mạnh tinh thần "phải chuẩn bị các mặt để đánh Việt
Nam", tuyên truyền: "Việt Nam là tay sai của Liên Xô, có tham vọng
xâm lược Campuchia, Lào, chiếm Đông Nam Á, thực hiện bá quyền khu vực, phải
đánh cho bọn xét lại Việt Nam, không đánh là không thể được và phải đánh lớn.
Việt Nam là tiểu bá ở châu Á, xâm lược Campuchia, xua đuổi người Hoa"[15].
Tháng 1-1978, Thủ tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu
các nước anh em giúp đỡ giải quyết cuộc xung đột Việt Nam - Campuchia. Một lần
nữa Trung Quốc không đáp ứng. Trong khi đó, cũng trong tháng 1-1978, Bà Đặng
Dĩnh Siêu, Ủy viên BCT ĐCSTQ sang thăm Phnompenh và ký một hiệp định xúc tiến
viện trợ quân sự cho Campuchia Dân chủ, bắt đầu chuyển vũ khí đến Campuchia.
Thậm chí, trong chuyến thăm, bà Đặng Dĩnh Siêu đã tuyên bố, Trung Quốc sẽ không
tha thứ cho một cuộc tấn công nào vào liên minh của họ (ngụ ý ám chỉ Việt Nam
đã rõ, mặc dù không nêu đích danh).
Sự rạn nứt trong quan hệ Việt - Trung trở nên
sâu sắc và chuyển dần sang trạng thái căng thẳng, xung đột thể hiện qua hàng
loạt sự kiện rắc rối khác, mà trước tiên là vấn
đề người Việt gốc Hoa.
So với các khu vực khác trên thế giới, Đông Nam Á (trong đó có
Việt Nam) là nơi có số lượng tương đối lớn Hoa kiều[16]
làm ăn, sinh sống, "lên tới hơn 20 triệu người (năm 1978)"[17].
Ở Việt Nam có khoảng 1,2 đến 2 triệu người Hoa đến lập nghiệp từ lâu đời, là một trong những thế lực kinh tế mạnh mẽ, nhất
là ở miền Nam Việt Nam. Người Hoa là một bộ phận cùng hợp thành cộng
đồng dân tộc Việt Nam với 54 dân tộc thống nhất trong đa dạng.
Năm 1955, ở miền Bắc, theo thỏa thuận của
ĐCSVN và ĐCSTQ, "người Hoa cư trú ở miền Bắc Việt Nam phải được đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam"[18],
sau dần dần chuyển thành công dân Việt Nam, được hưởng những quyền lợi chung
với người Việt Nam và tự nguyện nhận quốc tịch Việt Nam. Trong 21 năm kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -1975), giữa Việt Nam - Trung Quốc không có bất
cứ một bất đồng nào trong vấn đề người Hoa ở Việt Nam. Còn ở miền Nam Việt Nam,
từ năm 1956, dưới Chính quyền Ngô Đình Diệm, Hoa kiều đã gia nhập quốc tịch
Việt Nam để có điều kiện dễ dàng làm ăn, sinh sống.
Tháng 4-1978, Việt Nam tiến hành cải tạo công
thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam. Vấn đề người Hoa được Trung Quốc nêu
lên. Trung Quốc coi việc Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp, đẩy
mạnh công cuộc xây dựng CNXH như một sự công khai thách đố chính sách bảo vệ
Hoa kiều hải ngoại mà Trung Quốc vừa công bố ([19]).
Một phong trào đòi lấy quốc tịch Trung Quốc trong người Hoa ở Việt Nam được dấy
lên. Trung Quốc đưa ra chính sách "đoàn kết với giai cấp tư sản Hoa
kiều", kêu gọi chống lại chính sách "bài Hoa" của Việt Nam; đồng thời, loan truyền trong cộng đồng
người Việt, gốc Hoa những luận điệu kích động[20]
về một cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi giữa Việt Nam - Trung Quốc, gây
tâm lý hốt hoảng trong quần chúng người Hoa. Do sự khuyến khích đó của Trung
Quốc và với sự im lặng đồng tình ngầm của Việt Nam muốn tống xuất hiểm họa của
"đội quân thứ năm", trong năm 1978, các dòng người Hoa ở Việt Nam ồ
ạt kéo về Trung Quốc[21].
Ngày 30- 4-1978, Chủ nhiệm Văn phòng Hoa kiều vụ đã phát biểu bày tỏ "sự
quan tâm đối với hiện tượng Hoa kiều ở Việt Nam về nước hàng loạt", hứa hẹn "sẽ sắp xếp thích đáng cho những Hoa kiều
đã trở về một cách vội vàng". Để thu hút sự chú ý của dư luận thế giới về
tình trạng "nạn kiều", Trung Quốc lập ra các trạm đón tiếp dọc
theo biên giới hai nước, tuyên bố sẽ gửi hai tầu chuyên chở sang Việt Nam để
đón "nạn kiều" về nước. Tháng
5-1978, Trung Quốc đơn phương đưa tàu sang đón người Hoa về Trung Quốc [22]
Vấn đề người Hoa ở Việt Nam và phong trào đòi
trở lại quốc tịch Trung Quốc đã làm mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc trở
nên phức tạp. Đây là một trong những nguyên nhân làm căng thẳng quan hệ Việt
Nam - Trung Quốc sau năm 1975.
Việc Trung
Quốc đơn phương cắt viện trợ cho Việt Nam là một trong những nguyên nhân
tiếp theo làm cho sự căng thẳng trong quan hệ Việt - Trung ngày càng gia tăng.
Ngày 12-5-1978, Bộ Ngoại giao Trung Quốc gửi công hàm cho Đại sứ quán Việt Nam
ở Trung Quốc thông báo quyết định cắt 21 dự án ở Việt Nam, với lý do là để
chuyển các khoản tiền cùng vật chất trong các dự án này cho người Hoa hồi hương
sinh hoạt và lao động sản xuất. Sau đó, Chính phủ Trung Quốc đã gửi Chính phủ
Việt Nam Công hàm ngày 30-5-1978 hủy bỏ thêm thêm 51 dự án khác[23],
cũng với lý do cách đối xử của Chính phủ Việt Nam đối với người Hoa là gánh
nặng tài chính cho Trung Quốc, do Trung Quốc phải giải quyết vấn đề người Hoa
nhập vào Trung Quốc từ Việt Nam[24].
Chỉ trong tháng 5-1978, Trung Quốc đã cắt 72 trong số 111 công trình viện trợ[25], gây
cho Việt Nam nhiều khó khăn trong lĩnh vực kinh tế. Ngày 3-7-1978, Trung Quốc
gửi thêm một công hàm nữa cho Chính phủ Việt Nam thông báo chấm dứt mọi trợ
giúp kinh tế, kỹ thuật[26]
và rút tất cả các chuyên gia Trung Quốc đang làm việc ở Việt Nam về nước[27]. Ngày 22-12-1978, Trung Quốc đơn phương
hủy bỏ việc chuyên chở trên tuyến đường sắt liên vận giữa hai nước từ Hà Nội
đến Bắc Kinh. Về lý do cắt toàn bộ viện trợ, ngoài lý do vì “gánh nặng rất lớn về tài chính cho
Trung Quốc trong việc sắp xếp sản xuất và đời sống cho nạn kiều”[28]
các nhà nghiên cứu Trung Quốc còn đưa thêm lý do “Việt Nam ngày càng chống
Trung Quốc, bài Hoa một cách nghiêm trọng, phá hoại các điều kiện tối thiểu
nhất để các chuyên gia Trung Quốc tiếp tục công tác tại Việt Nam”[29],
nên “Chính phủ Trung Quốc mới buộc phải quyết định ngừng viện trợ kinh tế, kỹ
thuật cho Việt Nam, điều cán bộ Trung Quốc ở Việt Nam về nước”[30]
Cần lưu ý rằng, từ chối viện trợ cho Việt Nam với lý do “gánh nặng kinh tế giải quyết
vấn đề người Việt gốc Hoa”, nhưng trong dịp Vương Thượng Vĩnh, Phó Tổng tham
mưu trưởng quân đội Trung Quốc đến Phnôm Pênh đàm phán với Son Sen
(2-1976), những nhà lãnh đạo Trung Quốc đã ký viện trợ quân sự cho Campuchia
một khoản tiền không hề nhỏ, trị giá 226 triệu nhân dân tệ (tương đương 1,5 tỷ
USD) trong ba năm (1976-1978). Cắt viện trợ cho Việt Nam vào thời điểm Việt Nam
mới ra khỏi chiến tranh, đang nỗ lực khắc phục hậu quả chiến tranh, kiến thiết
đất nước và gồng mình bảo vệ tuyến biên giới Tây Nam, quả thật, Trung Quốc đã
đánh mạnh vào nền kinh tế của Việt Nam đang trong thời kỳ khó khăn, khiến Việt
Nam tiếp tục phải đối mặt với những thử thách mới.
Tiếp theo việc đơn phương cắt bỏ mọi khoản
viện trợ mà hai bên đã ký kết, Trung Quốc
hủy bỏ hiệp ước về lãnh sự. Ngày 17-6-1978, Trung Quốc yêu cầu các lãnh sự quán Việt Nam ở Côn Minh, Quảng Châu
và Nam Ninh phải dời về nước. Quan hệ Việt - Trung tiếp tục đi xuống một
bước.
Trước
tình hình căng thẳng trong quan hệ hai nước, lường định những tình huống xấu có
thể xảy ra, ngày 19-9-1978, BCT ra Nghị quyết số 11 "Về tổ chức Đảng và tổ chức công tác chính trị trong quân đội nhân dân
Việt Nam", nhấn mạnh phải luôn sẵn sàng chống lại các thế lực thù địch
từ bên ngoài đang tìm mọi cách để làm suy yếu và thôn tính Việt Nam; đồng thời, làm tốt nghĩa vụ quốc tế, củng cố lực
lượng độc lập, dân chủ, hòa bình ở khu vực[31].
Phân tích tình hình thế giới, sự vận động của các lực lượng quốc tế, Chỉ thị số
58 của BBT, ngày 8-12-1978 về cuộc vận động "Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội
nhân dân Việt Nam" xác định nhiệm vụ hết sức cấp bách, lớn lao của
Đảng, Nhà nước, của toàn thể dân tộc là xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
hùng mạnh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh có đủ khả năng bảo vệ
vững chắc Tổ quốc[32].
Tiếp nối mạch nhận thức đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ Đảng, ngày
25-12-1978, coi nhiệm vụ giáo dục,
làm cho nhân dân thấy rõ mục đích chống phá Việt Nam của một số thế lực thù
địch; từ đó, có ý thức cảnh giác cao độ với những hành động phiêu lưu mà các
thế lực này có thể gây ra[33]
là một trong những nhiệm vụ trọng yếu.
Việt Nam có quan hệ láng giềng kề cận, “tối
lửa, tắt đèn” với ba quốc gia: Trung Quốc, Lào, Campuchia – vốn là những nước
bạn bè, đồng minh trong cuộc chiến đấu chống lại các thế lực xâm lược vì quyền
dân tộc độc lập, tự do thiêng liêng. Với đất nước Chùa Tháp Campuchia, do điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử, Việt Nam và
Campuchia đã luôn sát cánh bên nhau trong chiến hào chống xâm lược. Từ năm 1976, dưới sự bảo trợ của một số
nước, Chính quyền Polpot - Iengxari với bản chất phản động đã
dựng lên một chế độ diệt chủng cực kỳ tàn bạo, có một không hai trong lịch sử.
Chính quyền Polpot
đã tiến hành các cuộc xâm lấn, đánh chiếm biên giới Việt Nam liên tục trong
thời gian dài với cường độ gia tăng [34] Lý giải về vấn đề này, giáo sư D.R.SarDesai, Đại học Califonria cho rằng: "Sở dĩ Campuchia dám đánh Việt Nam như thế là vì có sự ủng hộ và
xúi giục của Trung Quốc"[35].
Tuy nhiên, về phía Việt Nam, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước là
ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc
biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Campuchia “trên nguyên tắc hoàn toàn
bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn
trọng lợi ích chính đáng của nhau”[36].
Khi xảy ra xung đột biên giới do tập đoàn Polpot gây ra, Việt Nam đã
tích cực đề nghị đàm phán, giải quyết bằng con đường thương lượng hòa bình,
mong muốn “hai bên gặp nhau càng sớm càng tốt, ở bất cứ cấp nào để cùng nhau
trên tinh thần hữu nghị anh em giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước”[37],
song phía Campuchia liên tục khước từ và không ngừng tấn công đánh phá các điểm
dân cư dọc biên giới hai nước.
Sau một số bước chuẩn bị và mở rộng chiến
tranh, đến ngày 21-12-1978, Polpot sử dụng 10 sư đoàn, mở chiến dịch tiến công
trên toàn tuyến biên giới phía Nam, mục tiêu chủ yếu là chiếm thị xã Tây Ninh
của Việt Nam. Ngày 23-12-1978, vì sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc, Quân đội nhân dân
Việt Nam đã mở cuộc phản công chiến lược, đập tan cuộc tiến công toàn tuyến
hòng đánh chiếm thị xã Tây Ninh của tập đoàn Polpot - Iengxari. Trước yêu cầu
khẩn thiết của nhân dân Campuchia, của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước
Campuchia, vì hòa bình, ổn định của Đông Dương và khu vực
Đông Nam Á, ngày 26-12-1978, Quân đội nhân dân Việt Nam đã làm nghĩa vụ quốc
tế, cùng phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang của Mặt trận dân tộc cứu
nước Campuchia đánh tan lực lượng quân sự của Chính quyền Polpot, xóa bỏ chế độ diệt chủng, giải phóng toàn bộ đất nước
Campuchia. Sau khi chế độ diệt chủng của Polpot bị đập tan, Mặt trận đoàn kết
dân tộc của Heng Xomrin thành lập chế độ CHND Campuchia của nhân dân Campuchia. Với sự giúp đỡ của Việt Nam, nước
Campuchia mới được xây dựng trở lại.
Tuy nhiên, đối với Trung Quốc, "việc
không thể chấp nhận được đã thành sự thật" Trung Quốc coi việc Việt Nam
giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng là một trong những trở
ngại chính trong quan hệ Việt – Trung, bởi, nếu như Campuchia là một mắt
xích quan trọng phục vụ việc tạo vùng ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực Đông
Nam Á, đóng vai trò trung tâm “trong chiến
lược của Trung Quốc, nhằm bao vây ảnh hưởng của Việt Nam"[38]
tại khu vực này, “sau khi không thể nắm được Việt Nam trong quỹ đạo của
mình"[39],
thì hành động của Việt Nam đã làm đảo lộn các kế hoạch đã được tính toán, cân
nhắc của Trung Quốc. Một thời gian ngắn sau khi Phnompenh bị thất thủ, tờ Nhân dân Nhật báo (27-1-1979) đã
có bài viết, trong đó chứa nhiều hàm ý: Sự thất thủ của Phnompenh không có
nghĩa là chấm dứt chiến tranh, mà chỉ là sự khởi đầu của những phức tạp mới.
Với Trung Quốc, "vấn đề Campuchia đóng vai trò vật xúc tác để đẩy các quan
hệ với Việt Nam vượt quá một điểm không thể
nào quay trở lại được nữa"[40].
Vào thời điểm này, Trung Quốc, từ
chối công nhận CHND Campuchia và tích cực ủng hộ về tài chính, tiếp tế cho ba
phái Campuchia - FUNCINFEC ([41]),
KPNLF ([42])
và PDK ([43]),
tiến hành chiến tranh chống CHND Campuchia.
Trong thời gian này, bên cạnh những khúc mắc
như đã nói ở trên, xung đột về biên giới
trên bộ và chủ quyền trên biển Đông là một trong biểu hiện cụ thể, tập
trung nhất trạng thái bất bình thường trong quan hệ Việt - Trung, nó đẩy quan
hệ Việt - Trung rơi xuống nấc thấp nhất trong lịch sử quan hệ giữa hai nước.
Trong quan hệ giữa nhiều quốc gia, vấn đề biên
giới là một trong những vấn đề vô cùng nhạy cảm. Đối với mọi quốc gia, việc xác
định đường biên giới là một việc cần thiết và quan trọng, bởi biên giới là một
sáng tạo pháp lý để xác định chủ quyền. Biên giới, chủ quyền lãnh thổ là vô
cùng thiêng liêng và bất khả xâm phạm (inviolabilite).
Với Trung Quốc, Việt Nam có đường biên giới đất liền dài khoảng
1.406 km, từ ngã ba biên giới Việt Nam - Trung Quốc - Lào đến bờ biển vịnh Bắc
Bộ (Quảng Ninh - Vân Nam), đi qua 7 tỉnh biên giới phía Việt Nam, tiếp giáp với
hai tỉnh phía Trung Quốc ([44]).
Đường biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là đường biên giới thực tế lịch
sử, đến cuối thế kỷ XIX đã trở thành đường biên giới pháp lý (được luật pháp
quốc tế thừa nhận). Từ khi có quan hệ chính thức giữa hai Nhà nước, vấn đề biên
giới được hai bên thỏa thuận, giải quyết trên tinh thần thông cảm, nhân nhượng. Trong những năm Việt Nam bận với cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và việc quản lý biên giới chủ yếu do chính quyền
địa phương hai bên thực hiện và không quan tâm nhiều đến vấn đề pháp lý, chủ
yếu quản lý theo tập quán, theo các bản đồ Pháp vẽ, hoặc theo bản đồ hiện hành
do Trung Quốc xuất bản giúp Việt Nam. Tháng
12-1952, hai Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc ký Hiệp định phối hợp công tác biên phòng Việt – Trung; năm 1954, hai
nước ký tiếp Hiệp định bổ sung; tháng 5-1955, ký kết Hiệp định về mở mậu dịch tiểu ngạch ở biên giới Việt - Trung; năm
1963, ký kết Hiệp định hiệp đồng bảo vệ
an ninh khu vực biên giới; năm 1955, ký kết Hiệp định đường sắt biên giới
Việt - Trung (đến năm 1971 Hiệp định này được ký lại). Những hiệp định này cùng
với hai Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895 là cơ sở để hai nước cùng nhau
quản lý, xây đắp biên giới hòa bình, ổn định, hữu nghị.
Sau khi miền Bắc Việt Nam
giải phóng, vấn đề biên giới với Trung Quốc một lần nữa được Đảng, Nhà nước
Việt Nam quan tâm giải quyết. Từ ngày 6 đến ngày 9-11-1956, năm tỉnh biên giới
Việt Nam - Trung Quốc (Hải Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Đông, Quảng Tây) đã
gặp nhau hội đàm 10 vấn đề về biên giới[45]
và đã đi đến những thoả thuận về quản lý đường biên giới chung. Ngày 2-11-1957,
BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi thư cho BCH Trung ương ĐCS Trung Quốc
xác nhận biên bản thoả thuận giữa năm tỉnh biên giới hai bên đã ký kết tháng
11-1956. Phía Việt Nam đề nghị Trung Quốc hai vấn đề: 1). Vấn đề quốc giới cần
giải quyết theo những nguyên tắc pháp lý hiện có hoặc được xác định lại và phải
do Chính phủ hai nước quyết định; 2). Nghiêm cấm chính quyền địa phương không
được thương lượng với nhau để cắm mốc lại, hoặc cắt nhượng đất cho nhau. Theo
nhà ngoại giao Lưu Văn Lợi thì “đề nghị này được đưa ra với thiện chí bảo đảm
tôn trọng đường biên giới lịch sử do hai Công ước 1887 và 1895 hoạch định và đã
được phân giới cắm mốc”[46].
Tháng 4-1958, BCH Trung ương ĐCS Trung Quốc có phúc đáp, “đồng ý với phía Việt
Nam tôn trọng nguyên trạng của đường biên giới theo các Công ước 1887 và 1895”[47].
Hai nước cũng thỏa thuận nếu cần thiết sẽ tiến hành các cuộc hội đàm cấp tỉnh
để giải quyết những vấn đề cụ thể thuộc về dân sinh và trật tự trị an ở vùng
biên giới. Trên thực tế đã diễn ra nhiều cuộc hội đàm giữa các địa phương và đã
đi đến một số quy định về việc đi lại, buôn bán, thăm hỏi… giữa nhân dân các
tỉnh biên giới. Trong những năm 1958 - 1959, hai nước tiến hành trao trả ruộng
đất, rừng cây hỗn canh và giải quyết những tồn tại phức tạp hoặc do lịch sử để
lại, hoặc mới nảy sinh như: Bia mốc giới bị xê dịch, xâm canh, xâm cư, di cư,
trị an biên giới…
Có một thực tế là trải qua một thời gian dài,
sau những biến đổi về chính trị, những thay đổi về mặt thiên nhiên đã làm cho
biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc trên thực địa có một số thay đổi, đặc
biệt là giữa hai bên đã có những nhận thức khác nhau về chủ quyền đối với một
số khu vực, làm nảy sinh những bất đồng, tranh chấp, nhưng khi quan hệ Việt -
Trung còn êm ấm, những xung đột này mang tính chất cục bộ và nhất thời. Những
tranh chấp đó được hai Đảng, hai Nhà nước
Việt Nam, Trung Quốc giải quyết trên tinh thần hợp tác, hữu nghị. Như vậy, trước năm 1975, những vấn đề về
biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Quốc về cơ bản vừa thể hiện tính
nguyên tắc, tôn trọng luật pháp quốc tế, vừa thể hiện tình hữu nghị giữa hai
dân tộc[48].
Theo R.V.Pretcot thì đây là "một trong những biên giới được xác định tốt
nhất trong khu vực"[49].
Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày càng xấu đi
với những xung đột ở biên giới Việt - Trung tại khu vực Cao Bằng - Lạng Sơn vào
cuối năm 1976. Từ năm 1978 đến đầu năm 1979, mức độ những hành động xâm phạm
lãnh thổ, vũ trang khiêu khích biên giới Việt Nam của Trung Quốc ngày càng
nghiêm trọng. Đặc biệt, từ tháng 7-1978,
Trung Quốc đã sử dụng hành động này phục vụ cho mục đích chuẩn bị tạo cớ, gây
cuộc tấn công dọc theo toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam([50]).
Song song với việc liên tục xâm phạm chủ quyền
và lãnh thổ của Việt Nam, Trung Quốc còn
vận động các nước ASEAN vào một mặt trận chống Việt Nam. Ngày 5-11-1978, trong
chuyến thăm các nước ASEAN, Đặng Tiểu Bình đã phát biểu về nguy cơ của “đại bá”
Liên Xô và “tiểu bá” Việt Nam, dẫn chứng bằng
việc Việt Nam - Liên Xô ký kết Hiệp ước[51]
(3-11-1978), kêu gọi ASEAN thành lập Mặt trận chống Liên Xô và Việt Nam. Sang
đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình tiếp tục đi thăm Mỹ, nhằm tranh thủ sự đồng tình
của Mỹ đối với hành động chống Việt Nam của Trung Quốc, nếu Trung Quốc phát
động chiến tranh, để “dạy cho Việt Nam một bài học thích đáng”[52].
Cùng với vận động ngoại giao, Trung Quốc tăng cường chuẩn bị mọi
mặt cho cuộc tấn công quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới với Việt Nam, tập
trung những quân đoàn chủ lực dọc theo biên giới Việt - Trung. Ngày 17- 2-
1979, sau sự chuẩn bị kỹ lưỡng trên cả hai phương diện trong nước và quốc tế,
Trung Quốc đưa 60 vạn quân tấn công dọc theo biên giới phía Bắc, đánh sâu vào
lãnh thổ Việt Nam cùng với gần 800 xe bọc thép, xe tăng, trọng pháo và máy bay
các loại ([53]).
Cuộc tấn công dọc tuyến biên giới phía Bắc
(1979) đã khoét sâu thêm hố ngăn cách giữa Trung Quốc và Việt Nam, làm quan hệ
hai nước vốn đã rạn nứt, nay rơi vào tình trạng dường như không thể cứu vãn. Các nhà bình luận
phương Tây gọi đây là "cuộc chiến
giữa những người anh em Đỏ", hay "cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba". H. Kissinger đánh giá về cuộc chiến tranh này như sau:
“Yếu tố ý thức hệ đã biến mất khỏi xung đột. Các trung tâm quyền lực của cộng
sản cuối cùng đã tiến hành chiến tranh giành thế cân bằng quyền lực không phải
căn cứ vào ý thức hệ mà hoàn toàn xuất phát từ lợi ích dân tộc”[54].
Về phía Trung Quốc, biện minh cho hành động của mình, Trung Quốc tuyên bố đây
chỉ là “một cuộc phản kích để tự vệ” (?!). Thực chất, "đây là một cuộc
chiến tranh xâm lược toàn diện bằng lực lượng chính quy của hầu hết các quân
khu Trung Quốc"[55].
Trung Quốc "có sự chuẩn bị kỹ càng về các mặt"[56].
Như vậy, tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc trở nên căng
thẳng do những hoạt động vũ trang từ phía Trung Quốc. Trước thực tế đó, nhân
dân Việt Nam quyết tâm bảo vệ đến cùng từng tấc đất biên cương của Tổ quốc và
có những biện pháp giáng trả kiên quyết. Ngay trong ngày 17-2-1979, Chính phủ Việt Nam đã ra Tuyên bố về cuộc tấn công của Trung
Quốc, khẳng định quyết tâm, sự tin tưởng sắt đá rằng, dưới sự lãnh đạo của
ĐCSVN và Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, lại được bạn bè khắp năm châu đồng
tình, ủng hộ mạnh mẽ, nhân dân Việt Nam - một dân tộc kiên cường, anh dũng, bất
khuất đã từng đánh thắng mọi kẻ xâm lược nhất định sẽ chiến thắng. Dân tộc Việt
Nam chắc chắn sẽ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của mình, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á và trên thế
giới[57].
Ngày 18-2-1979, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam kêu gọi toàn dân đoàn kết, kiên quyết bảo vệ Tổ quốc, chặn đứng và đập tan mọi âm mưu xâm phạm chủ
quyền lãnh thổ của đất nước[58].
Ngày 4-3-1979, BCHTƯ ĐCSVN ra Lời kêu gọi,
kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước thực hiện nghĩa vụ dân tộc thiêng liêng,
ra sức chiến đấu để tự vệ và đánh đuổi các
thế lực thù địch đang giày xéo non sông đất nước ra khỏi bờ cõi[59].
Để bảo vệ vẹn toàn tuyến biên giới phía Bắc, tư
tưởng chủ đạo của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam là phải nỗ lực vượt bậc,
tranh thủ giành thắng lợi trong thời gian tương đối ngắn; đồng thời, phải chuẩn
bị mọi điều kiện để đánh lâu dài, lâu bao nhiêu cũng đánh, quyết bảo vệ vững
chắc từng tấc đất của Tổ quốc, trên cơ sở nắm vững phương châm "làm chủ đất
nước, làm chủ chiến trường để tiêu diệt địch; tiêu diệt địch để làm chủ đất
nước, làm chủ chiến trường"[60].
Ngày 14-3-1979, trước sức ép của dư luận, trước
sự chống trả của quân, dân Việt Nam ở biên giới và có lẽ tự cho là đã
"dạy" cho Việt Nam một bài học, Trung Quốc tuyên bố rút quân khỏi
Việt Nam. Trước việc Trung Quốc rút quân, ngày 6-3-1979, BBT đã ra Chỉ thị số 69, nhận định về tình hình và
đưa ra chủ trương trong điều kiện Trung Quốc rút quân. Chỉ thị của BBT ghi rõ: Tối 5-3-1979, Tân Hoa Xã (Trung Quốc) ra Tuyên bố về việc "Quân đội Trung
Quốc đã bắt đầu rút quân từ 5-3-1979", khẳng định: Trong khi chấp
nhận cho Quân đội Trung Quốc rút
quân, luôn luôn phải nâng cao cảnh giác, tăng cường quốc phòng, sẵn sàng giữ
vững từng tấc đất biên cương của Tổ quốc và không loại trừ khả năng Quân đội Trung Quốc có thể quay lại một lần nữa[61].
BBT cũng nhấn mạnh: Không được một chút mơ hồ nào đối với âm mưu của các thế
lực thù địch bên ngoài là thôn tính đất nước và khuất dân tộc Việt Nam, phải
"luôn luôn sẵn sàng chuẩn bị chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đập tan bọn xâm
lược" và "về mặt quốc tế, cần giương cao chính nghĩa của ta, bảo vệ
độc lập, tự do của Tổ quốc và bảo vệ hòa
bình, xúc tiến việc hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ, bảo vệ Việt
Nam"[62].
Sự kiện 17-2-1979 được tính toán và lựa chọn
thời điểm một cách kỹ, là một đòn giáng mạnh vào tình hữu nghị được vun đắp lâu
đời giữa hai dân tộc, mục tiêu làm Việt Nam suy yếu, nhưng với ý chí, lòng yêu
nước, lòng tự tôn dân tộc, nhân dân Việt Nam đã sát cánh trong những ngày bờ
cõi bị đe dọa, chặn đứng mọi hành động xâm lược. Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng
định rằng, thững tính toán “hòng làm giảm uy tín và cô lập nước ta trên trường
quốc tế cũng sẽ bị thất bại và trên thực tế đã bị thất bại”[63].
Cuộc tấn công dọc tuyến biên giới phía Bắc (1979) là sự đổ vỡ to lớn trong quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc. Quan hệ hai nước chính thức bước vào giai đoạn căng
thẳng, đối đầu.
Download
toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC
[1] Định ước Helsinki đề cập đến nhiều nội dung quan trọng như: Sự
bình đẳng giữa các quốc gia, việc loại trừ sự đe dọa hay sử dụng vũ lực trong
quan hệ, tính bất khả xâm phạm của các tuyến đường biên giới, sự không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau; tăng cường phối hợp kinh tế, khoa học, kỹ
thuật, trao đổi thông tin về các số liệu thống kê; tuân thủ quyền tự do và các
quyền cơ bản của con người.
[3]Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban chấp hành
Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1977, tr. 178.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng
toàn tập, Tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.362.
[7] Nguyễn Đình Bin (chủ biên): Ngoại giao
Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.310.
([9]) Trong khi đó, cuộc đi thăm hữu nghị
Liên Xô do đồng chí Lê Duẩn dẫn đầu vào tháng 10-1975 lại được đánh giá là
thành công. Việt Nam đã ký hiệp định phối hợp kinh tế quốc gia với Liên Xô
trong 5 năm (1976-1980) và nhận được 500 triệu USD viện trợ với trên 400 hạng
mục công trình.
[10] Marwyun S.Samules: Tranh chấp biển Đông,
Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, Hà Nội, 1982, tr.7.
[12] Pao Min Chang: Cuộc tranh chấp Trung -
Việt và vấn đề thiểu số người Hoa, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, Hà
Nội, 1982, tr.16.
[13] Lưu Văn Lợi: 50 năm ngoại giao Việt Nam
(1945-1995), Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.122.
[14]Hàng vạn người đã được huy động đứng dọc quãng đường từ sân bay về
Thủ đô Bắc Kinh, vẫy cờ, hoa chào đón Polpot, còn cuộc đón tiếp Bí thư
thứ nhất Lê Duẩn không khí lặng lẽ một cách bất thường. Tờ Nhân dân nhật báo
đã đăng những bức ảnh đen trắng về chuyến thăm của Bí thư thứ nhất Lê
Duẩn, chứ không phải là các bức ảnh mầu như thông lệ khi có các vị thượng khách
đến thăm.
[15] Bộ mặt thật, phản động, phản bội của tập
đoàn cầm quyền Bắc Kinh và sự đầu độc của chúng đối với quân đội Trung Quốc, Báo cáo của Cục tuyên truyền đặc biệt, Tổng cục chính trị, Tập tài
liệu văn kiện Trung ương, Lưu tại Tổng cục chính trị, Bộ Quốc phòng, tr.2.
[16]Hoa kiều được gọi là "đội quân
thứ năm" trong chính sách tăng cường ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực.
[17] Bộ Ngoại giao: Sự thật về quan hệ Việt
Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, Sách trắng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979,
tr.19.
[18] Ramses Amer: Người Hoa ở Việt Nam và quan hệ Trung -
Việt, Kuals Lumpur, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Ban Biên giới Chính phủ,
1991, tr.8.
([19]) Từ
cuối năm 1976 sang đầu năm 1977, ở Trung Quốc có sự thay đổi chính sách đối với
vấn đề gọi là "người Hoa ở hải ngoại". Nếu trong thời kỳ "cách
mạng văn hoá" người Hoa ở nước ngoài bị phân biệt đối xử và nghi ngờ, thì
từ đầu năm 1977, Trung Quốc lại mong nhận được sự giúp đỡ của người Hoa ở nước
ngoài để phát triển kinh tế đất nước. Chính sách đối với Hoa kiều ở hải ngoại
lần đầu tiên được công bố qua một bài viết của Liêu Thừa Chí, Chủ tịch Uỷ ban
Hoa kiều Hải ngoại vụ (đăng trên Nhân dân Nhật báo ngày 4-1-1978), trong
đó tuyên bố: Trung Quốc sẽ giành quyền bảo vệ tất cả Hoa kiều hải ngoại còn
mang quốc tịch Trung Quốc.
[20] Trung Quốc lan truyền tin rằng, "Chính phủ Trung Quốc kêu
gọi người Hoa về nước xây dựng Tổ quốc"; "ai không về là phản bội Tổ
quốc".
[21] Tuy nhiên, bên cạnh dòng người Hoa đổ về Trung Quốc, với nhiều
người Việt gốc Hoa thực dụng hơn đã coi đây là cơ may để đến được thế giới Tây
phương - điều mà những người Hoa ở Đông Nam Á hẻo lánh không mơ tới được (BBCVetnamese.com,
10-2-2009).
([22]) Chỉ trong vòng
vài tháng, 17 vạn người Hoa đã rời Việt Nam đi Trung Quốc (Sự thật về quan hệ Việt
Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 86). Sau khi Trung Quốc đóng cửa biên giới (12-7-1978),
nhiều người Hoa vẫn cố vượt biên. Theo tính toán của Ramses Amer “thì con số
người Hoa ra đi cụ thể từ tháng 4-1978 đến cuối tháng 12-1979 là khoảng trên
dưới 25 vạn người” (Người Hoa ở Việt Nam và quan hệ Trung - Việt, Kuals Lumpur, 1991, tr. 46).
([23]) Hội đồng tương trợ kinh tế COMECON đã
nhận đảm đương giúp Việt Nam 21 công trình lớn mà Trung Quốc bỏ dở.
[24]Ramses Amer: "Sino-Vietnameses Normalization in the Light of
Crisis of the late 1970s", In: the "Pacific Affairs",
Vol.67, N3, Fall 1994, University of British Columbia Canada, 1994, tr.
360-361
([26]) Từ năm 1976, Trung Quốc giảm dần và
đến năm 1978 thì cắt hẳn viện trợ: Khoảng 500 triệu đô la thiết bị và 300 triệu
đô la/năm hàng hoá, vật tư, trong đó có 34 vạn tấn lương thực, 43 vạn tấn xăng
dầu, 30 triệu mét vải và 1 vạn 5 tấn bông, 14 vạn tấn phân bón, 15 vạn tấn
ximăng, 20 vạn tấn than mỡ v.v...
[27] Ramses Amer: "Sino-Vietnameses Normalization in the Light of
Crisis of the late 1970s", In: the "Pacific Affairs",
Vol.67, N3, Tlđd, tr.32.
[28]"Nghiên cứu vấn đề quốc tế", Tạp
chí Nghiên cứu vấn đề quốc tế, Sở nghiên cứu các vấn đề quốc tế của Trung
Quốc, số 2, Bản dịch, Lưu tại Phòng Thông tin- tư liệu, Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam, Bộ Quốc phòng, 198), tr. 12
[31] Bộ Chính trị: Nghị quyết số 11, ngày
19-9-1978, "Về tổ chức công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt
Nam", Lưu tại Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng, tr.
3
[32]Ban Bí thư: Chỉ thị số 58, ngày 8-12-1978
về cuộc vận động "Phát huy bản chất tốt đẹp nâng cao sức mạnh chiến đấu
của Quân đội nhân dân Việt Nam", Lưu tại Cục lưu trữ, Văn phòng Trung
ương Đảng, tr.
2
[33]Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 5(25-12-1978), Lưu tại Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương
Đảng, tr. 2
([34]) Theo số liệu của Ban Tổng kết quân sự
- Bộ Quốc phòng thì từ tháng 5-1975 đến cuối năm 1975, chúng gây ra 110 vụ xung
đột, lấn chiếm 20 điểm biên giới. Năm 1976, chúng gây ra 280 vụ, tăng 2,7 lần
so với năm 1975, năm 1977 gây ra 1.850 vụ, tăng 6 lần so với năm 1976.
[36] Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành
Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1977, tr. 113.
[37]Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1975 -
1995), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998, Tập 2, tr. 110.
[38] Cuộc xung đột Trung Quốc - Việt Nam, Chuyên san, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội,
1980, tr. 9.
[39] Gilbert Padoul: Chính sách ngoại giao
của Trung Quốc sau Mao Trạch Đông, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội,
tr.2.
[40] Michael Lelfer: Xét nghiệm lại cuộc
chiến tranh Đông Dương lần thứ ba, Bản dịch, Lưu lại Thư viện Quân đội,
1979, tr.1.
([44]) Đường biên giới với Trung Quốc được
phân định trong các Công ước ngày 26- 6-1887 và ngày 20-6-1895 giữa Chính quyền
Pháp (đại diện cho Việt Nam lúc bấy giờ) và nhà Thanh (đại diện cho Trung
Quốc). Công ước hoạch định biên giới Pháp - Thanh ngày 26-6-1887 đã hoạch
định lại một số đoạn biên giới tiếp giáp giữa Bắc Kỳ với Vân Nam và nói rõ
đường kinh tuyến 105°43' là đường phân chia chủ quyền các đảo. Công ước bổ sung
hoạch định biên giới Pháp - Thanh ngày 20-6-1895 thống nhất hoạch định
các đoạn biên giới mà hai bên còn gác lại trong các văn bản hoạch định trước và
hoạch định mới đoạn biên giới giữa Bắc Kỳ và Vân Nam từ sông Đà đến sông Mê
Công. Trên cơ sở của các bản Công ước này, từ năm 1889 đến năm 1897, trên toàn
bộ tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Pháp và nhà Thanh đã hai bên
đã tổ chức phân giới, xác định 314 vị trí mốc và đã cắm được 341 mốc giới trên
thực địa. Nhìn chung, trong quá trình đàm phán thương lượng về biên giới, chính
quyền Pháp và nhà Thanh đã vận dụng một số nguyên tắc phổ biến của pháp luật
quốc tế cũng như thực tiễn quốc tế trong quá trình xác lập đường biên giới trên
đất liền giữa Việt Nam và Trung quốc, thực hiện đầy đủ các bước từ xác định
nguyên tắc, hoạch định, phân giới và tiến hành cắm mốc trên thực địa cũng như
các thủ tục pháp lý khác. Về mặt pháp lý, Công ước năm 1887 và Công ước bổ sung
năm 1895 cùng các biên bản, bản đồ phân giới cắm mốc thực hiện hai Công ước là
một thể thống nhất các văn bản pháp lý bổ sung cho nhau, cung cấp khá đầy đủ
các yếu tố về đường biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Như vậy, về
cơ bản, hai công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895 thừa nhận đường biên giới
lịch sử truyền thống giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong quá trình phân giới cắm mốc, phía Pháp đã nhân
nhượng một số vùng lãnh thổ của Việt Nam cho Trung Quốc như Giang Bình, Bát
Trang (Quảng Ninh), Đèo Luông (Cao Bằng), Tụ Long (Hà Giang). Trong giai đoạn chế
độ Quốc dân đảng ở Trung Quốc, quan hệ biên giới giữa Pháp và Trung Quốc cơ bản
ổn định, hệ thống mốc giới được bảo vệ, nhưng lợi dụng tình hình Pháp bị sa lầy
và thất bại liên tiếp trong chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Tưởng
Giới Thạch đã có hành động di chuyển, phá hoại một số mốc giới, lấn chiếm quản
lý nhiều khu vực đất đai sang phía Việt Nam.
[45]Đó là các vấn đề: Ruộng đất xâm canh; rừng cây ở bên kia biên
giới; việc chăn nuôi qua biên giới; vấn đề thuỷ lợi, nguồn nước, đánh bắt cá
trên sông, suối biên giới; vấn đề vay nợ; vấn đề quốc tịch, kiều dân; vấn đề
thông hôn; vấn đề di cư; vấn đề trị an; vấn đề quốc giới.
[47] Long Việt, "Vietnam - Chia Lanh Border Treaty - a common
victory of two nations”, Vietnam Law and Legal Forum, No 65, 1-2000.
[48]Vấn đề kế thừa di sản của các đường biên giới xác lập trong thời
kỳ thực dân đã được đặt ra, coi đó là căn cứ chính để các bên đàm phán thoả
thuận về một đường biên giới mới - đường biên giới quốc tế giữa các quốc gia
độc lập có chủ quyền. ừ sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời (năm
1945) và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời (năm 1949), trên thực tế hai
nước Việt Nam và Trung Quốc đã duy trì sự quản lý biên giới thực tế cơ bản dựa
trên đường biên giới đã được hoạch định bởi hai Công ước Pháp - Thanh năm 1887
và 1895 và kết quả thực hiện hai Công ước đó (kết quả phân giới, cắm mốc trên
thực địa giữa chính quyền Pháp và nhà Thanh), nhằm giữ sự ổn định ở vùng biên
giới chung giữa hai nước. Trước năm 1975, Việt Nam trong tình trạng bị chia
cắt, cần phải tập trung sức người, sức của vào công cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, nên công tác đàm phán, giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ
với các nước láng giềng, trong đó có Trung Quốc chưa có điều kiện đặt ra để
giải quyết một cách thực chất.
[49] R.V.Pretcot : Những biên giới của Đông
Nam Á, Nxb Membuốc, 1977, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Ban Biên giới Chính
phủ, tr. 60
([50]) Theo thống kê của Việt Nam công bố
trong Bị vong lục của Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam ngày 15-2-1979,
thì số vụ xâm phạm vũ trang của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam năm 1978 là
583 vụ, tháng 1 và những tuần lễ đầu tháng 2-1979 có tới 230 vụ (dẫn theo Bị
vong lục Bộ Ngoại giao Việt Nam, Báo Nhân dân, ngày 16-2-1979, tr.
4).
[51]Việt Nam và Liên Xô đã ký Hiệp ước hữu nghị và
hợp tác toàn diện (11-1978) có thời hạn 25 năm (mặc nhiên gia hạn 10 năm,
nếu một trong hai bên không tuyên bố muốn chấm dứt hiệu lực của Hiệp định trước
khi Hiệp định hết hạn một năm), cam kết không ngừng phát triển quan hệ mọi mặt,
mở rộng hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học – kỹ thuật giữa hai nước. Điều 6 của
Hiệp định ghi rõ: “Trong trường hợp một trong hai bên bị tiến
công hoặc bị đe doạ tiến công, thì hai bên kí hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý
kiến với nhau, nhằm loại trừ mối đe doạ đó và áp dụng các biện pháp thích đáng
có hiệu lực, để bảo đảm hoà bình và an ninh của hai nước”.
[52] Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, (1975 -
1995), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998,Tập 2, tr. 122.
([53]) Để
trả lời, phía Việt Nam cũng phản kích đánh vào Malipô, Ninh Minh- hai thành phố
biên giới của Trung Quốc.
[54]Dẫn theo “Kissinger bàn về Trung Quốc”, Pháp luật, Trang
thông tin điện tử báo Pháp luật T.P Hồ Chí Minh, ngày 12-2-2012.
[57] "Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của những người
cầm quyền Trung Quốc", Báo Nhân dân, ngày 18-2-1979, tr. 6.
[58] "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kêu gọi
đồng bào cả nước đoàn kết, kiên quyết đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của
bọn phản động Trung Quốc", Báo Nhân dân, ngày 19-2-1979, tr. 6.
[59] "Lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam", (1979), Báo Nhân dân, ngày 5-3, tr.
1.
[60] Ban Chấp hành Trung ương:
Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1-1994), “Về tình hình
thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước”, T1, Nội dung chính văn
kiện Đảng (1975-2005), Lưu tại Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng, tr.222
[61] Ban Bí thư:
Chỉ thị số 69, ngày 6-3-1979 “Về chủ trương của ta trước tình hình bọn
phản động Trung Quốc rút quân”, T4, Nội dung chính văn kiện Đảng (1975-2005) , Lưu tại Cục lưu trữ, Văn phòng
Trung ương Đảng, tr.75.
[63] Ban Chấp hành Trung ương:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (khoá IV, ngày 20-9-1979) “Về tình hình và
nhiệm vụ cấp bách”, Lưu tại Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng, ĐVBQ số
494, tr.1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!