Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013

KHÚC QUANH TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC (1975-1979)



Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Với chiến thắng lịch sử Mùa Xuân 1975, Việt Nam đã hoàn toàn độc lập; khát vọng bấy lâu về một đất nước thống nhất, vẹn toàn của cả dân tộc đã thành hiện thực.  Việt Nam xây dựng lại đất nước trong điều kiện khu vực, thế giới đang có những thay đổi quan trọng. Từ cuối những năm 70 (XX), so sánh lực lượng trên thế giới về quân sự có sự thay đổi, Liên Xô đã giành được thế cân bằng về vũ khí chiến lược với Mỹ, dẫn đến giai đoạn hòa hoãn giữa các nước lớn: Hòa hoãn Mỹ - Xô, Tây Âu - Liên Xô, Mỹ - Trung Quốc, Tây Âu, Nhật Bản với Trung Quốc. Thiện chí và nỗ lực giảm căng thẳng của các nước lớn đứng đầu mỗi cực thể hiện qua những cuộc gặp cấp cao giữa Liên Xô và Mỹ, cải thiện đáng kể quan hệ giữa các nước thuộc hai khối XHCN và TBCN.

Cuối tháng 7-1975, diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh giữa các nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ các nước châu Âu tại Helsinki và việc ký kết Định ước Helsinki[1] đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ giữa các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Trong nội bộ hệ thống các nước tư bản cũng có sự thay đổi, Tây Âu và Nhật Bản trở thành những trung tâm kinh tế mới cạnh tranh gay gắt với Mỹ, sự gắn bó với Mỹ về chính trị, quân sự, ngoại giao không còn chặt chẽ như trước. Xu hướng độc lập với Mỹ trong thế giới phương Tây tăng lên.
Sau chiến tranh Việt Nam, Mỹ điều chỉnh chiến lược toàn cầu, song Đông Nam Á vẫn là một mắt xích quan trọng. Nét mới trong chiến lược của Mỹ “sau Việt Nam” là giảm cam kết ở bên ngoài, thúc đẩy hòa hoãn với các đối thủ chính, tập trung ưu tiên giải quyết các vấn đề trong nước để củng cố địa vị trong hệ thống TBCN. Mặt khác, ở vào thế phải đối phó cùng một lúc với suy thoái kinh tế và khủng hoảng chính trị, Mỹ không thể giữ thái độ đối đầu gay gắt, mà thực hiện chính sách hoà hoãn với những nước có vai trò, tác động trong từng khu vực, vừa kiềm chế, vừa lôi kéo để giữ nguyên trạng ở các khu vực. Sự điều chỉnh chiến lược “sau Việt Nam” của Mỹ kéo theo sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn khác đã nói lên tác động to lớn của việc kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Nhà sử học Mỹ Gabriel Kolko đã viết về điều đó như sau: “Chiến tranh Việt Nam là một sự kiện vĩ đại vượt quá phạm vi một nước và vượt quá cả thời gian và nó phản ánh, dưới hình thức rõ nét nhất, những sôi động và xu hướng cơ bản trong quá trình lịch sử kể từ năm 1946. Đó không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả lôgic của lòng tham, sức mạnh và nhược điểm đương thời của Mỹ”[2]. Trong lúc đó, Liên Xô tăng cường mở rộng ảnh hưởng ở châu Mỹ La tinh, châu Á, châu Phi, đặc biệt là ở các nước thuộc khối thuộc địa của Bồ Đào Nha mới giành được độc lập và quan tâm nhiều hơn đến Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương. Những năm 70 (XX), độc lập dân tộc đã trở thành một xu thế mạnh mẽ, tuy nhiên, các nước mới độc lập đang phải đấu tranh chống nghèo nàn lạc hậu, khủng hoảng chính trị. Ở hầu hết các nước XHCN xảy ra tình trạng quan liêu trong quản lý, trì trệ trong xây dựng kinh tế, nhân dân thờ ơ, thụ động. Đa số các nước XHCN đều trong tình trạng năng suất lao động thấp (kém khoảng 4 lần so với các nước tư bản). Xuất khẩu của các nước XHCN được coi là phát triển như Cộng hòa Dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Hungari, Liên Xô... chỉ chiếm từ 12 đến 15% tổng thu nhập quốc dân (trong khi Mỹ và phương Tây chiếm tới 40% tổng thu nhập quốc dân). Những khó khăn về kinh tế dẫn đến những mâu thuẫn gay gắt về chính trị - xã hội trong nội bộ các nước XHCN. Đây là thời kỳ tiền khủng hoảng của cả hệ thống XHCN. Những khó khăn đó càng thêm gay gắt khi cuộc cách mạng KHCN, quá trình quốc tế hóa nền sản xuất, phân công lao động quốc tế diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, làm cho khoảng cách giữa các nước XHCN và các nước TBCN ngày tăng.
Trong bối cảnh quốc tế như trên, sau khi tiến hành thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, Đảng, Nhà nước Việt Nam quyết định chuyển đất nước sang một giai đoạn mới: Quá độ lên CNXH trên phạm vi cả nước. Đi lên CNXH sau năm 1975 là bước phát triển kế tiếp mà Đảng, Nhà nước Việt Nam đã lựa chọn sau ngày độc lập. Song, việc lựa chọn mô hình và bước đi cho phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế của Việt Nam, những thay đổi, biến động trên thế giới là thách thức lớn đang đặt ra. Trước yêu cầu đó, việc tận dụng tốt nhất hoàn cảnh khách quan thuận lợi, chuyển hóa sức mạnh của Việt Nam từng được phát huy trong CMDTDCND thành sức mạnh hiện thực trong công cuộc tái thiết đất nước trở thành yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng.
Nhằm tạo dựng và tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi cho mục tiêu phát triển đất nước, trọng tâm của đường lối đối ngoại được xác định là “tiếp tục kề vai sát cánh với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và tất cả các dân tộc trên thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”[3]. Tư tưởng cơ bản, thấu suốt trong lĩnh vực đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam là: "Kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữ vững độc lập, tự chủ về chính trị và chủ quyền dân tộc, tiến nhanh đến độc lập tự chủ về kinh tế, tích cực đoàn kết các lực lượng xã hội chủ nghĩa và độc lập dân tộc"[4].
Nằm trong định hướng đối ngoại chung ấy, Đảng, Nhà nước Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường đoàn kết, hợp tác hữu nghị với các nước XHCN, trong đó có Liên Xô và Trung Quốc: "Đối với hệ thống xã hội chủ nghĩa, chúng ta ra sức tăng cường đoàn kết hữu nghị, tăng cường hợp tác kinh tế với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác"[5]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng CSVN (14-12-1976), chủ trương tăng cường đoàn kết với các nước XHCN (trong đó có Trung Quốc) một lần nữa được nhấn mạnh lại: “Ra sức củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác giữa nước ta với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em, làm hết sức mình để góp phần cùng các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khôi phục và củng cố đoàn kết, tăng cường ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau”[6].
Sau khi miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, cuối tháng 9-1975, đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam do Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn dẫn đầu đã sang thăm Trung Quốc, để tỏ lòng biết ơn chân thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc về sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chuyến đi này cũng còn nhằm mục đích tiếp tục củng cố và tăng cường hơn nữa quan hệ giữa hai nước. Cũng lưu ý rằng, chuyến thăm viếng nước ngoài đầu tiên sau Đại thắng Mùa Xuân 1975 mà Đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và Chính phủ Việt Nam thực hiện là đến Trung Quốc. Điều này chứng tỏ Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hợp tác hữu nghị với Trung Quốc.
Nhân dịp này, Chính phủ Trung Quốc cam kết thực hiện các khoản viện trợ đã hứa cho Việt Nam trước năm 1975 để xây dựng 111 công trình.
Tháng 10-1976, Trung Quốc giúp Việt Nam một số vũ khí phòng thủ. Năm 1977, Trung Quốc cho Việt Nam vay 900.000 tấn lương thực[7].
Mặc dù vậy, phải nhận thấy rằng, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong những năm 1975-1978 cũng đã bộc lộ nhiều “lỗ hổng” và mang dáng vẻ lạnh nhạt. Dường như không phải ngẫu nhiên mà đúng lúc Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn đang bắt đầu chuyến thăm cấp Nhà nước tại Bắc Kinh, tờ Nhân dân nhật báo ngày 18-9-1975 đã đăng 6 ảnh lớn về các đơn vị quân đội Trung Quốc ở Hoàng Sa[8]. Tương tự, một ngày sau khi phái đoàn Việt Nam rời khỏi Trung Quốc, các bức ảnh lớn về Hoàng Sa tiếp tục xuất hiện trong những tờ báo uy tín tại Bắc Kinh. Nhìn chung, chuyến thăm Bắc Kinh tháng 9-1975 của Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng Lê Duẩn được các nhà quan sát coi như một thất bại chính trị - ngoại giao([9]), bởi mặc dù được tiếp đón linh đình, song phái đoàn đã rút ngắn thời gian lưu lại tại Bắc Kinh và đã không mở tiệc chiêu đãi để cảm tạ lòng hiếu khách của người Trung Hoa như vẫn thường thấy trong thông lệ ngoại giao. Phái đoàn đã rời Bắc Kinh đúng hai ngày trước khi kỷ niệm ngày Quốc khánh Trung Quốc (1-10), mà không đưa ra bất cứ một phát biểu hoặc thông cáo nào về cuộc viếng thăm. Tiếp đó, ngày 26-11-1975, sau khi Đoàn Việt Nam kết thúc chuyến thăm hữu nghị Liên Xô, tờ Quang minh nhật báo có bài viết về Hoàng Sa và Trường Sa với lời báo động không giấu giếm: "Một số đảo vẫn chưa trở về trong tay nhân dân Trung Hoa… Tất cả các đảo thuộc về Trung Hoa đều phải trở về lãnh thổ của Tổ quốc"[10].
Tuy hai nước còn cố gắng kiềm chế, tránh xung đột, nhưng từ giữa những năm 1976, quan hệ Việt - Trung đã xấu đi rất nhanh với các tranh cãi liên quan đến vấn đề biên giới, vấn đề người Việt gốc Hoa và đặc biệt về vai trò của Liên Xô trong các vấn đề thế giới, khu vực. Trong bài phát biểu của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn tại Hội nghị lần thứ 25 BCHTƯ Đảng CSVN (họp từ ngày 24-9 đến 24-10-1976) xuất hiện những cụm từ nhiều hàm ý: “Ta thắng là nhờ có sự giúp đỡ tích cực của Liên Xô, Trung Quốc, của phe ta, của thế giới, Liên Xô và Trung Quốc giúp ta rất nhiều. Không có sự giúp đỡ của họ ta khó lòng thắng được. Ta phải luôn luôn biết ơn Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác đã giúp ta; ta nói cho con cháu ta mãi mãi nhớ ơn họ. Nhưng chúng ta phải độc lập, tự chủ bởi vì trong quan hệ quốc tế, mỗi nước có lập trường riêng do vị trí và quyền lợi mỗi nước một khác, cho nên giữa các nước anh em, khó có sự nhất trí với nhau, có khi về những vấn đề rất quan trọng đối với một nước trong phe, cũng không nhất trí được”[11].
Tháng 2-1977, Trung Quốc ngỏ ý với Việt Nam rằng, không sẵn sàng cung cấp viện trợ cho Việt Nam trong công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh[12].
Cũng vào thời kỳ này, biên giới Việt Nam - Campuchia liên tục có xung đột. Đảng, Chính phủ Việt Nam không dưới một lần đề nghị Trung Quốc giúp đỡ dàn xếp, mong muốn thông qua hợp tác với Trung Quốc tác động tới phía Campuchia, song Trung Quốc đã im lặng. Việc Trung Quốc từ chối ủng hộ Việt Nam trong việc tìm kiếm các phương thức giải quyết căng thẳng biên giới với Campuchia càng cho thấy những vết nứt sâu hơn trong quan hệ hai nước. Điều đáng chú ý là trong thời điểm phức tạp, nhạy cảm của quan hệ Việt Nam - Campuchia, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Hoàng Hoa đã chính thức phát biểu (30-7-1977): “Chúng tôi ủng hộ lập trường chống đế quốc xét lại Liên Xô của Campuchia... và sẽ không thể ngồi nhìn bất cứ sự can thiệp nào đối với chủ quyền Campuchia hoặc thèm khát lãnh thổ nào bởi đế quốc xã hội. Chúng tôi sẽ ủng hộ Campuchia trong cuộc đấu tranh và có các hành động nhằm bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền quốc gia Campuchia bằng mọi sự giúp đỡ có thể”[13].
Ngày 20-11-1977, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn sang thăm Trung Quốc một lần nữa. Đây được coi như một nỗ lực, nhằm hàn gắn những vết rạn nứt trong quan hệ với Trung Quốc, thực hiện việc cố gắng cân bằng quan hệ giữa Việt Nam - Liên Xô; Việt Nam - Trung Quốc. Tuy nhiên, giới quan sát nhận thấy rằng, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã được đón tiếp với một thái độ vừa phải (nếu không muốn nói là lạnh nhạt), trái ngược với sự trọng thị và nồng nhiệt được dành cho Polpot trước đó một tháng[14]. Chuyến viếng thăm Trung Quốc lần này của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn chẳng những không làm cho quan hệ hai nước ấm lên, mà bộc lộ những bất đồng mới. Trong cuộc tiếp kiến giữa Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và Chủ tịch Hoa Quốc Phong, mặc dù hai bên đều tránh nói đến một vấn đề tế nhị trong quan hệ hai nước là những tranh chấp về Hoàng Sa, Trường Sa, song sự khác biệt về quan điểm trong việc nhìn nhận thế giới, chiến tranh và hòa bình đã bộc lộ ngày càng rõ. Bí thư thứ nhất Lê Duẩn bày tỏ quan điểm không tham gia vào cuộc tranh cãi Trung - Xô thông qua việc "chân thành cảm ơn Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác về sự nhiệt tình, giúp đỡ to lớn đối với Việt Nam". Quan hệ có vẻ căng thẳng hơn, khi Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đề nghị những nhà lãnh đạo Trung Quốc yêu cầu Campuchia Dân chủ chấp nhận một giải pháp cho cuộc xung đột trên tuyến biên giới Tây Nam, nhưng Trung Quốc đã không mấy mặn mà. Cuối cùng, cũng giống như chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 9-1975, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cũng đã ra về mà không mở tiệc khoản đãi những người Trung Hoa anh em.
Về phía Trung Quốc, từ cuối năm 1977, các văn kiện của Quân khu Quảng Châu luôn nhấn mạnh tinh thần "phải chuẩn bị các mặt để đánh Việt Nam", tuyên truyền: "Việt Nam là tay sai của Liên Xô, có tham vọng xâm lược Campuchia, Lào, chiếm Đông Nam Á, thực hiện bá quyền khu vực, phải đánh cho bọn xét lại Việt Nam, không đánh là không thể được và phải đánh lớn. Việt Nam là tiểu bá ở châu Á, xâm lược Campuchia, xua đuổi người Hoa"[15].
Tháng 1-1978, Thủ tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu các nước anh em giúp đỡ giải quyết cuộc xung đột Việt Nam - Campuchia. Một lần nữa Trung Quốc không đáp ứng. Trong khi đó, cũng trong tháng 1-1978, Bà Đặng Dĩnh Siêu, Ủy viên BCT ĐCSTQ sang thăm Phnompenh và ký một hiệp định xúc tiến viện trợ quân sự cho Campuchia Dân chủ, bắt đầu chuyển vũ khí đến Campuchia. Thậm chí, trong chuyến thăm, bà Đặng Dĩnh Siêu đã tuyên bố, Trung Quốc sẽ không tha thứ cho một cuộc tấn công nào vào liên minh của họ (ngụ ý ám chỉ Việt Nam đã rõ, mặc dù không nêu đích danh).
Sự rạn nứt trong quan hệ Việt - Trung trở nên sâu sắc và chuyển dần sang trạng thái căng thẳng, xung đột thể hiện qua hàng loạt sự kiện rắc rối khác, mà trước tiên là vấn đề người Việt gốc Hoa.
So với các khu vực khác trên thế giới, Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam) là nơi có số lượng tương đối lớn Hoa kiều[16] làm ăn, sinh sống, "lên tới hơn 20 triệu người (năm 1978)"[17]. Ở Việt Nam có khoảng 1,2 đến 2 triệu người Hoa đến lập nghiệp từ lâu đời, là một trong những thế lực kinh tế mạnh mẽ, nhất là ở miền Nam Việt Nam. Người Hoa là một bộ phận cùng hợp thành cộng đồng dân tộc Việt Nam với 54 dân tộc thống nhất trong đa dạng.
Năm 1955, ở miền Bắc, theo thỏa thuận của ĐCSVN và ĐCSTQ, "người Hoa cư trú ở miền Bắc Việt Nam phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam"[18], sau dần dần chuyển thành công dân Việt Nam, được hưởng những quyền lợi chung với người Việt Nam và tự nguyện nhận quốc tịch Việt Nam. Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -1975), giữa Việt Nam - Trung Quốc không có bất cứ một bất đồng nào trong vấn đề người Hoa ở Việt Nam. Còn ở miền Nam Việt Nam, từ năm 1956, dưới Chính quyền Ngô Đình Diệm, Hoa kiều đã gia nhập quốc tịch Việt Nam để có điều kiện dễ dàng làm ăn, sinh sống.
Tháng 4-1978, Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam. Vấn đề người Hoa được Trung Quốc nêu lên. Trung Quốc coi việc Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp, đẩy mạnh công cuộc xây dựng CNXH như một sự công khai thách đố chính sách bảo vệ Hoa kiều hải ngoại mà Trung Quốc vừa công bố ([19]). Một phong trào đòi lấy quốc tịch Trung Quốc trong người Hoa ở Việt Nam được dấy lên. Trung Quốc đưa ra chính sách "đoàn kết với giai cấp tư sản Hoa kiều", kêu gọi chống lại chính sách "bài Hoa" của Việt Nam; đồng thời, loan truyền trong cộng đồng người Việt, gốc Hoa những luận điệu kích động[20] về một cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi giữa Việt Nam - Trung Quốc, gây tâm lý hốt hoảng trong quần chúng người Hoa. Do sự khuyến khích đó của Trung Quốc và với sự im lặng đồng tình ngầm của Việt Nam muốn tống xuất hiểm họa của "đội quân thứ năm", trong năm 1978, các dòng người Hoa ở Việt Nam ồ ạt kéo về Trung Quốc[21]. Ngày 30- 4-1978, Chủ nhiệm Văn phòng Hoa kiều vụ đã phát biểu bày tỏ "sự quan tâm đối với hiện tượng Hoa kiều ở Việt Nam về nước hàng loạt", hứa hẹn "sẽ sắp xếp thích đáng cho những Hoa kiều đã trở về một cách vội vàng". Để thu hút sự chú ý của dư luận thế giới về tình trạng "nạn kiều", Trung Quốc lập ra các trạm đón tiếp dọc theo biên giới hai nước, tuyên bố sẽ gửi hai tầu chuyên chở sang Việt Nam để đón "nạn kiều" về nước. Tháng 5-1978, Trung Quốc đơn phương đưa tàu sang đón người Hoa về Trung Quốc [22]
Vấn đề người Hoa ở Việt Nam và phong trào đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc đã làm mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc trở nên phức tạp. Đây là một trong những nguyên nhân làm căng thẳng quan hệ Việt Nam - Trung Quốc sau năm 1975.
Việc Trung Quốc đơn phương cắt viện trợ cho Việt Nam là một trong những nguyên nhân tiếp theo làm cho sự căng thẳng trong quan hệ Việt - Trung ngày càng gia tăng. Ngày 12-5-1978, Bộ Ngoại giao Trung Quốc gửi công hàm cho Đại sứ quán Việt Nam ở Trung Quốc thông báo quyết định cắt 21 dự án ở Việt Nam, với lý do là để chuyển các khoản tiền cùng vật chất trong các dự án này cho người Hoa hồi hương sinh hoạt và lao động sản xuất. Sau đó, Chính phủ Trung Quốc đã gửi Chính phủ Việt Nam Công hàm ngày 30-5-1978 hủy bỏ thêm thêm 51 dự án khác[23], cũng với lý do cách đối xử của Chính phủ Việt Nam đối với người Hoa là gánh nặng tài chính cho Trung Quốc, do Trung Quốc phải giải quyết vấn đề người Hoa nhập vào Trung Quốc từ Việt Nam[24]. Chỉ trong tháng 5-1978, Trung Quốc đã cắt 72 trong số 111 công trình viện trợ[25], gây cho Việt Nam nhiều khó khăn trong lĩnh vực kinh tế. Ngày 3-7-1978, Trung Quốc gửi thêm một công hàm nữa cho Chính phủ Việt Nam thông báo chấm dứt mọi trợ giúp kinh tế, kỹ thuật[26] và rút tất cả các chuyên gia Trung Quốc đang làm việc ở Việt Nam về nước[27]. Ngày 22-12-1978, Trung Quốc đơn phương hủy bỏ việc chuyên chở trên tuyến đường sắt liên vận giữa hai nước từ Hà Nội đến Bắc Kinh. Về lý do cắt toàn bộ viện trợ, ngoài  lý do vì “gánh nặng rất lớn về tài chính cho Trung Quốc trong việc sắp xếp sản xuất và đời sống cho nạn kiều”[28] các nhà nghiên cứu Trung Quốc còn đưa thêm lý do “Việt Nam ngày càng chống Trung Quốc, bài Hoa một cách nghiêm trọng, phá hoại các điều kiện tối thiểu nhất để các chuyên gia Trung Quốc tiếp tục công tác tại Việt Nam”[29], nên “Chính phủ Trung Quốc mới buộc phải quyết định ngừng viện trợ kinh tế, kỹ thuật cho Việt Nam, điều cán bộ Trung Quốc ở Việt Nam về nước”[30]
Cần lưu ý rằng, từ chối viện trợ cho Việt Nam với lý do “gánh nặng kinh tế giải quyết vấn đề người Việt gốc Hoa”, nhưng trong dịp Vương Thượng Vĩnh, Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc đến Phnôm Pênh đàm phán với Son Sen (2-1976), những nhà lãnh đạo Trung Quốc đã ký viện trợ quân sự cho Campuchia một khoản tiền không hề nhỏ, trị giá 226 triệu nhân dân tệ (tương đương 1,5 tỷ USD) trong ba năm (1976-1978). Cắt viện trợ cho Việt Nam vào thời điểm Việt Nam mới ra khỏi chiến tranh, đang nỗ lực khắc phục hậu quả chiến tranh, kiến thiết đất nước và gồng mình bảo vệ tuyến biên giới Tây Nam, quả thật, Trung Quốc đã đánh mạnh vào nền kinh tế của Việt Nam đang trong thời kỳ khó khăn, khiến Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với những thử thách mới.
Tiếp theo việc đơn phương cắt bỏ mọi khoản viện trợ mà hai bên đã ký kết, Trung Quốc hủy bỏ hiệp ước về lãnh sự. Ngày 17-6-1978, Trung Quốc yêu cầu các lãnh sự quán Việt Nam ở Côn Minh, Quảng Châu và Nam Ninh phải dời về nước. Quan hệ Việt - Trung tiếp tục đi xuống một bước.
 Trước tình hình căng thẳng trong quan hệ hai nước, lường định những tình huống xấu có thể xảy ra, ngày 19-9-1978, BCT ra Nghị quyết số 11 "Về tổ chức Đảng và tổ chức công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam", nhấn mạnh phải luôn sẵn sàng chống lại các thế lực thù địch từ bên ngoài đang tìm mọi cách để làm suy yếu và thôn tính Việt Nam; đồng thời, làm tốt nghĩa vụ quốc tế, củng cố lực lượng độc lập, dân chủ, hòa bình ở khu vực[31]. Phân tích tình hình thế giới, sự vận động của các lực lượng quốc tế, Chỉ thị số 58 của BBT, ngày 8-12-1978 về cuộc vận động "Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam" xác định nhiệm vụ hết sức cấp bách, lớn lao của Đảng, Nhà nước, của toàn thể dân tộc là xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh có đủ khả năng bảo vệ vững chắc Tổ quốc[32]. Tiếp nối mạch nhận thức đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ Đảng, ngày 25-12-1978, coi nhiệm vụ giáo dục, làm cho nhân dân thấy rõ mục đích chống phá Việt Nam của một số thế lực thù địch; từ đó, có ý thức cảnh giác cao độ với những hành động phiêu lưu mà các thế lực này có thể gây ra[33] là một trong những nhiệm vụ trọng yếu.
Việt Nam có quan hệ láng giềng kề cận, “tối lửa, tắt đèn” với ba quốc gia: Trung Quốc, Lào, Campuchia – vốn là những nước bạn bè, đồng minh trong cuộc chiến đấu chống lại các thế lực xâm lược vì quyền dân tộc độc lập, tự do thiêng liêng. Với đất nước Chùa Tháp Campuchia, do điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử, Việt Nam và Campuchia đã luôn sát cánh bên nhau trong chiến hào chống xâm lược. Từ năm 1976, dưới sự bảo trợ của một số nước, Chính quyền Polpot - Iengxari với bản chất phản động đã dựng lên một chế độ diệt chủng cực kỳ tàn bạo, có một không hai trong lịch sử.
Chính quyền Polpot đã tiến hành các cuộc xâm lấn, đánh chiếm biên giới Việt Nam liên tục trong thời gian dài với cường độ gia tăng [34] Lý giải về vấn đề này, giáo sư D.R.SarDesai, Đại học Califonria cho rằng: "Sở dĩ Campuchia dám đánh Việt Nam như thế là vì có sự ủng hộ và xúi giục của Trung Quốc"[35]. Tuy nhiên, về phía Việt Nam, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước là ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Campuchia “trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau”[36]. Khi xảy ra xung đột biên giới do tập đoàn Polpot gây ra, Việt Nam đã tích cực đề nghị đàm phán, giải quyết bằng con đường thương lượng hòa bình, mong muốn “hai bên gặp nhau càng sớm càng tốt, ở bất cứ cấp nào để cùng nhau trên tinh thần hữu nghị anh em giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước”[37], song phía Campuchia liên tục khước từ và không ngừng tấn công đánh phá các điểm dân cư dọc biên giới hai nước.
Sau một số bước chuẩn bị và mở rộng chiến tranh, đến ngày 21-12-1978, Polpot sử dụng 10 sư đoàn, mở chiến dịch tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Nam, mục tiêu chủ yếu là chiếm thị xã Tây Ninh của Việt Nam. Ngày 23-12-1978, vì sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc, Quân đội nhân dân Việt Nam đã mở cuộc phản công chiến lược, đập tan cuộc tiến công toàn tuyến hòng đánh chiếm thị xã Tây Ninh của tập đoàn Polpot - Iengxari. Trước yêu cầu khẩn thiết của nhân dân Campuchia, của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, vì hòa bình, ổn định của Đông Dương và khu vực Đông Nam Á, ngày 26-12-1978, Quân đội nhân dân Việt Nam đã làm nghĩa vụ quốc tế, cùng phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang của Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia đánh tan lực lượng quân sự của Chính quyền Polpot, xóa bỏ chế độ diệt chủng, giải phóng toàn bộ đất nước Campuchia. Sau khi chế độ diệt chủng của Polpot bị đập tan, Mặt trận đoàn kết dân tộc của Heng Xomrin thành lập chế độ CHND Campuchia của nhân dân Campuchia. Với sự giúp đỡ của Việt Nam, nước Campuchia mới được xây dựng trở lại.
Tuy nhiên, đối với Trung Quốc, "việc không thể chấp nhận được đã thành sự thật" Trung Quốc coi việc Việt Nam giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng là một trong những trở ngại chính trong quan hệ Việt – Trung, bởi, nếu như Campuchia là một mắt xích quan trọng phục vụ việc tạo vùng ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á, đóng vai trò trung tâm “trong chiến lược của Trung Quốc, nhằm bao vây ảnh hưởng của Việt Nam"[38] tại khu vực này, “sau khi không thể nắm được Việt Nam trong quỹ đạo của mình"[39], thì hành động của Việt Nam đã làm đảo lộn các kế hoạch đã được tính toán, cân nhắc của Trung Quốc. Một thời gian ngắn sau khi Phnompenh bị thất thủ, tờ Nhân dân Nhật báo (27-1-1979) đã có bài viết, trong đó chứa nhiều hàm ý: Sự thất thủ của Phnompenh không có nghĩa là chấm dứt chiến tranh, mà chỉ là sự khởi đầu của những phức tạp mới. Với Trung Quốc, "vấn đề Campuchia đóng vai trò vật xúc tác để đẩy các quan hệ với Việt Nam vượt quá một điểm không thể nào quay trở lại được nữa"[40]. Vào thời điểm này, Trung Quốc, từ chối công nhận CHND Campuchia và  tích cực ủng hộ về tài chính, tiếp tế cho ba phái Campuchia - FUNCINFEC ([41]), KPNLF ([42]) và PDK ([43]), tiến hành chiến tranh chống CHND Campuchia.
Trong thời gian này, bên cạnh những khúc mắc như đã nói ở trên, xung đột về biên giới trên bộ và chủ quyền trên biển Đông là một trong biểu hiện cụ thể, tập trung nhất trạng thái bất bình thường trong quan hệ Việt - Trung, nó đẩy quan hệ Việt - Trung rơi xuống nấc thấp nhất trong lịch sử quan hệ giữa hai nước.
Trong quan hệ giữa nhiều quốc gia, vấn đề biên giới là một trong những vấn đề vô cùng nhạy cảm. Đối với mọi quốc gia, việc xác định đường biên giới là một việc cần thiết và quan trọng, bởi biên giới là một sáng tạo pháp lý để xác định chủ quyền. Biên giới, chủ quyền lãnh thổ là vô cùng thiêng liêng và bất khả xâm phạm (inviolabilite).
Với Trung Quốc, Việt Nam có đường biên giới đất liền dài khoảng 1.406 km, từ ngã ba biên giới Việt Nam - Trung Quốc - Lào đến bờ biển vịnh Bắc Bộ (Quảng Ninh - Vân Nam), đi qua 7 tỉnh biên giới phía Việt Nam, tiếp giáp với hai tỉnh phía Trung Quốc ([44]). Đường biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là đường biên giới thực tế lịch sử, đến cuối thế kỷ XIX đã trở thành đường biên giới pháp lý (được luật pháp quốc tế thừa nhận). Từ khi có quan hệ chính thức giữa hai Nhà nước, vấn đề biên giới được hai bên thỏa thuận, giải quyết trên tinh thần thông cảm, nhân nhượng. Trong những năm Việt Nam bận với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và việc quản lý biên giới chủ yếu do chính quyền địa phương hai bên thực hiện và không quan tâm nhiều đến vấn đề pháp lý, chủ yếu quản lý theo tập quán, theo các bản đồ Pháp vẽ, hoặc theo bản đồ hiện hành do Trung Quốc xuất bản giúp Việt Nam. Tháng 12-1952, hai Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc ký Hiệp định phối hợp công tác biên phòng Việt – Trung; năm 1954, hai nước ký tiếp Hiệp định bổ sung; tháng 5-1955, ký kết Hiệp định về mở mậu dịch tiểu ngạch ở biên giới Việt - Trung; năm 1963, ký kết Hiệp định hiệp đồng bảo vệ an ninh khu vực biên giới; năm 1955, ký kết Hiệp định đường sắt biên giới Việt - Trung (đến năm 1971 Hiệp định này được ký lại). Những hiệp định này cùng với hai Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895 là cơ sở để hai nước cùng nhau quản lý, xây đắp biên giới hòa bình, ổn định, hữu nghị.
 Sau khi miền Bắc Việt Nam giải phóng, vấn đề biên giới với Trung Quốc một lần nữa được Đảng, Nhà nước Việt Nam quan tâm giải quyết. Từ ngày 6 đến ngày 9-11-1956, năm tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc (Hải Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Đông, Quảng Tây) đã gặp nhau hội đàm 10 vấn đề về biên giới[45] và đã đi đến những thoả thuận về quản lý đường biên giới chung. Ngày 2-11-1957, BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi thư cho BCH Trung ương ĐCS Trung Quốc xác nhận biên bản thoả thuận giữa năm tỉnh biên giới hai bên đã ký kết tháng 11-1956. Phía Việt Nam đề nghị Trung Quốc hai vấn đề: 1). Vấn đề quốc giới cần giải quyết theo những nguyên tắc pháp lý hiện có hoặc được xác định lại và phải do Chính phủ hai nước quyết định; 2). Nghiêm cấm chính quyền địa phương không được thương lượng với nhau để cắm mốc lại, hoặc cắt nhượng đất cho nhau. Theo nhà ngoại giao Lưu Văn Lợi thì “đề nghị này được đưa ra với thiện chí bảo đảm tôn trọng đường biên giới lịch sử do hai Công ước 1887 và 1895 hoạch định và đã được phân giới cắm mốc[46]. Tháng 4-1958, BCH Trung ương ĐCS Trung Quốc có phúc đáp, “đồng ý với phía Việt Nam tôn trọng nguyên trạng của đường biên giới theo các Công ước 1887 và 1895”[47]. Hai nước cũng thỏa thuận nếu cần thiết sẽ tiến hành các cuộc hội đàm cấp tỉnh để giải quyết những vấn đề cụ thể thuộc về dân sinh và trật tự trị an ở vùng biên giới. Trên thực tế đã diễn ra nhiều cuộc hội đàm giữa các địa phương và đã đi đến một số quy định về việc đi lại, buôn bán, thăm hỏi… giữa nhân dân các tỉnh biên giới. Trong những năm 1958 - 1959, hai nước tiến hành trao trả ruộng đất, rừng cây hỗn canh và giải quyết những tồn tại phức tạp hoặc do lịch sử để lại, hoặc mới nảy sinh như: Bia mốc giới bị xê dịch, xâm canh, xâm cư, di cư, trị an biên giới…
Có một thực tế là trải qua một thời gian dài, sau những biến đổi về chính trị, những thay đổi về mặt thiên nhiên đã làm cho biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc trên thực địa có một số thay đổi, đặc biệt là giữa hai bên đã có những nhận thức khác nhau về chủ quyền đối với một số khu vực, làm nảy sinh những bất đồng, tranh chấp, nhưng khi quan hệ Việt - Trung còn êm ấm, những xung đột này mang tính chất cục bộ và nhất thời. Những tranh chấp đó được hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam, Trung Quốc giải quyết trên tinh thần hợp tác, hữu nghị. Như vậy, trước năm 1975, những vấn đề về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Quốc về cơ bản vừa thể hiện tính nguyên tắc, tôn trọng luật pháp quốc tế, vừa thể hiện tình hữu nghị giữa hai dân tộc[48]. Theo R.V.Pretcot thì đây là "một trong những biên giới được xác định tốt nhất trong khu vực"[49].
Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày càng xấu đi với những xung đột ở biên giới Việt - Trung tại khu vực Cao Bằng - Lạng Sơn vào cuối năm 1976. Từ năm 1978 đến đầu năm 1979, mức độ những hành động xâm phạm lãnh thổ, vũ trang khiêu khích biên giới Việt Nam của Trung Quốc ngày càng nghiêm trọng. Đặc biệt, từ tháng 7-1978, Trung Quốc đã sử dụng hành động này phục vụ cho mục đích chuẩn bị tạo cớ, gây cuộc tấn công dọc theo toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam([50]).
Song song với việc liên tục xâm phạm chủ quyền và lãnh thổ của Việt Nam, Trung Quốc còn vận động các nước ASEAN vào một mặt trận chống Việt Nam. Ngày 5-11-1978, trong chuyến thăm các nước ASEAN, Đặng Tiểu Bình đã phát biểu về nguy cơ của “đại bá” Liên Xô và “tiểu bá” Việt Nam, dẫn chứng bằng  việc Việt Nam - Liên Xô ký kết Hiệp ước[51] (3-11-1978), kêu gọi ASEAN thành lập Mặt trận chống Liên Xô và Việt Nam. Sang đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình tiếp tục đi thăm Mỹ, nhằm tranh thủ sự đồng tình của Mỹ đối với hành động chống Việt Nam của Trung Quốc, nếu Trung Quốc phát động chiến tranh, để “dạy cho Việt Nam một bài học thích đáng”[52].
Cùng với vận động ngoại giao, Trung Quốc tăng cường chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tấn công quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới với Việt Nam, tập trung những quân đoàn chủ lực dọc theo biên giới Việt - Trung. Ngày 17- 2- 1979, sau sự chuẩn bị kỹ lưỡng trên cả hai phương diện trong nước và quốc tế, Trung Quốc đưa 60 vạn quân tấn công dọc theo biên giới phía Bắc, đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam cùng với gần 800 xe bọc thép, xe tăng, trọng pháo và máy bay các loại ([53]). Cuộc tấn công dọc tuyến biên giới phía Bắc (1979) đã khoét sâu thêm hố ngăn cách giữa Trung Quốc và Việt Nam, làm quan hệ hai nước vốn đã rạn nứt, nay rơi vào tình trạng dường  như không thể cứu vãn. Các nhà bình luận phương Tây gọi đây là "cuộc chiến giữa những người anh em Đỏ", hay "cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba". H. Kissinger đánh giá về cuộc chiến tranh này như sau: “Yếu tố ý thức hệ đã biến mất khỏi xung đột. Các trung tâm quyền lực của cộng sản cuối cùng đã tiến hành chiến tranh giành thế cân bằng quyền lực không phải căn cứ vào ý thức hệ mà hoàn toàn xuất phát từ lợi ích dân tộc”[54]. Về phía Trung Quốc, biện minh cho hành động của mình, Trung Quốc tuyên bố đây chỉ là “một cuộc phản kích để tự vệ” (?!). Thực chất, "đây là một cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện bằng lực lượng chính quy của hầu hết các quân khu Trung Quốc"[55]. Trung Quốc "có sự chuẩn bị kỹ càng về các mặt"[56].
Như vậy, tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc trở nên căng thẳng do những hoạt động vũ trang từ phía Trung Quốc. Trước thực tế đó, nhân dân Việt Nam quyết tâm bảo vệ đến cùng từng tấc đất biên cương của Tổ quốc và có những biện pháp giáng trả kiên quyết. Ngay trong ngày 17-2-1979, Chính phủ Việt Nam đã ra Tuyên bố về cuộc tấn công của Trung Quốc, khẳng định quyết tâm, sự tin tưởng sắt đá rằng, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN và Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, lại được bạn bè khắp năm châu đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ, nhân dân Việt Nam - một dân tộc kiên cường, anh dũng, bất khuất đã từng đánh thắng mọi kẻ xâm lược nhất định sẽ chiến thắng. Dân tộc Việt Nam chắc chắn sẽ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của mình, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á và trên thế giới[57].
Ngày 18-2-1979, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kêu gọi toàn dân đoàn kết, kiên quyết bảo vệ Tổ quốc, chặn đứng và đập tan mọi âm mưu xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của đất nước[58]. Ngày 4-3-1979, BCHTƯ ĐCSVN ra Lời kêu gọi, kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước thực hiện nghĩa vụ dân tộc thiêng liêng, ra sức chiến đấu để tự vệ và đánh đuổi các thế lực thù địch đang giày xéo non sông đất nước ra khỏi bờ cõi[59].
Để bảo vệ vẹn toàn tuyến biên giới phía Bắc, tư tưởng chủ đạo của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam là phải nỗ lực vượt bậc, tranh thủ giành thắng lợi trong thời gian tương đối ngắn; đồng thời, phải chuẩn bị mọi điều kiện để đánh lâu dài, lâu bao nhiêu cũng đánh, quyết bảo vệ vững chắc từng tấc đất của Tổ quốc, trên cơ sở nắm vững phương châm "làm chủ đất nước, làm chủ chiến trường để tiêu diệt địch; tiêu diệt địch để làm chủ đất nước, làm chủ chiến trường"[60].
Ngày 14-3-1979, trước sức ép của dư luận, trước sự chống trả của quân, dân Việt Nam ở biên giới và có lẽ tự cho là đã "dạy" cho Việt Nam một bài học, Trung Quốc tuyên bố rút quân khỏi Việt Nam. Trước việc Trung Quốc rút quân, ngày 6-3-1979, BBT đã ra Chỉ thị số 69, nhận định về tình hình và đưa ra chủ trương trong điều kiện Trung Quốc rút quân. Chỉ thị của BBT ghi rõ: Tối 5-3-1979, Tân Hoa Xã (Trung Quốc) ra Tuyên bố về việc "Quân đội Trung Quốc đã bắt đầu rút quân từ 5-3-1979", khẳng định: Trong khi chấp nhận cho Quân đội Trung Quốc rút quân, luôn luôn phải nâng cao cảnh giác, tăng cường quốc phòng, sẵn sàng giữ vững từng tấc đất biên cương của Tổ quốc và không loại trừ khả năng Quân đội Trung Quốc có thể quay lại một lần nữa[61]. BBT cũng nhấn mạnh: Không được một chút mơ hồ nào đối với âm mưu của các thế lực thù địch bên ngoài là thôn tính đất nước và khuất dân tộc Việt Nam, phải "luôn luôn sẵn sàng chuẩn bị chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đập tan bọn xâm lược" và "về mặt quốc tế, cần giương cao chính nghĩa của ta, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc và bảo vệ hòa bình, xúc tiến việc hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ, bảo vệ Việt Nam"[62].
Sự kiện 17-2-1979 được tính toán và lựa chọn thời điểm một cách kỹ, là một đòn giáng mạnh vào tình hữu nghị được vun đắp lâu đời giữa hai dân tộc, mục tiêu làm Việt Nam suy yếu, nhưng với ý chí, lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, nhân dân Việt Nam đã sát cánh trong những ngày bờ cõi bị đe dọa, chặn đứng mọi hành động xâm lược. Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định rằng, thững tính toán “hòng làm giảm uy tín và cô lập nước ta trên trường quốc tế cũng sẽ bị thất bại và trên thực tế đã bị thất bại”[63]. Cuộc tấn công dọc tuyến biên giới phía Bắc (1979) là sự đổ vỡ to lớn trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Quan hệ hai nước chính thức bước vào giai đoạn căng thẳng, đối đầu.

Download toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC



[1] Định ước Helsinki đề cập đến nhiều nội dung quan trọng như: Sự bình đẳng giữa các quốc gia, việc loại trừ sự đe dọa hay sử dụng vũ lực trong quan hệ, tính bất khả xâm phạm của các tuyến đường biên giới, sự không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; tăng cường phối hợp kinh tế, khoa học, kỹ thuật, trao đổi thông tin về các số liệu thống kê; tuân thủ quyền tự do và các quyền cơ bản của con người.
[2]Gabriel Kolko, Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb QĐND, Hà Nội, 1991, tr. 256.
[3]Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 178.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.362.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam :Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr. 362.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr. 586.
[7] Nguyễn Đình Bin (chủ biên): Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.310.
[8] Marwyun S.Samules: Tranh chấp biển Đông, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, 1982, tr.127.
([9]) Trong khi đó, cuộc đi thăm hữu nghị Liên Xô do đồng chí Lê Duẩn dẫn đầu vào tháng 10-1975 lại được đánh giá là thành công. Việt Nam đã ký hiệp định phối hợp kinh tế quốc gia với Liên Xô trong 5 năm (1976-1980) và nhận được 500 triệu USD viện trợ với trên 400 hạng mục công trình.
[10] Marwyun S.Samules: Tranh chấp biển Đông, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, Hà Nội, 1982, tr.7.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr. 333.
[12] Pao Min Chang: Cuộc tranh chấp Trung - Việt và vấn đề thiểu số người Hoa, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, Hà Nội, 1982, tr.16.
[13] Lưu Văn Lợi: 50 năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.122.
[14]Hàng vạn người đã được huy động đứng dọc quãng đường từ sân bay về Thủ đô Bắc Kinh, vẫy cờ, hoa chào đón Polpot, còn cuộc đón tiếp Bí thư thứ nhất Lê Duẩn không khí lặng lẽ một cách bất thường. Tờ Nhân dân nhật báo đã đăng những bức ảnh đen trắng về chuyến thăm của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, chứ không phải là các bức ảnh mầu như thông lệ khi có các vị thượng khách đến thăm.
[15] Bộ mặt thật, phản động, phản bội của tập đoàn cầm quyền Bắc Kinh và sự đầu độc của chúng đối với quân đội Trung Quốc, Báo cáo của Cục tuyên truyền đặc biệt, Tổng cục chính trị, Tập tài liệu văn kiện Trung ương, Lưu tại Tổng cục chính trị, Bộ Quốc phòng, tr.2.
[16]Hoa kiều được gọi là "đội quân thứ năm" trong chính sách tăng cường ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực.
[17] Bộ Ngoại giao: Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, Sách trắng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979, tr.19.
[18] Ramses Amer:  Người Hoa ở Việt Nam và quan hệ Trung - Việt, Kuals Lumpur, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Ban Biên giới Chính phủ, 1991, tr.8.
([19]) Từ cuối năm 1976 sang đầu năm 1977, ở Trung Quốc có sự thay đổi chính sách đối với vấn đề gọi là "người Hoa ở hải ngoại". Nếu trong thời kỳ "cách mạng văn hoá" người Hoa ở nước ngoài bị phân biệt đối xử và nghi ngờ, thì từ đầu năm 1977, Trung Quốc lại mong nhận được sự giúp đỡ của người Hoa ở nước ngoài để phát triển kinh tế đất nước. Chính sách đối với Hoa kiều ở hải ngoại lần đầu tiên được công bố qua một bài viết của Liêu Thừa Chí, Chủ tịch Uỷ ban Hoa kiều Hải ngoại vụ (đăng trên Nhân dân Nhật báo ngày 4-1-1978), trong đó tuyên bố: Trung Quốc sẽ giành quyền bảo vệ tất cả Hoa kiều hải ngoại còn mang quốc tịch Trung Quốc.
[20] Trung Quốc lan truyền tin rằng, "Chính phủ Trung Quốc kêu gọi người Hoa về nước xây dựng Tổ quốc"; "ai không về là phản bội Tổ quốc".
[21] Tuy nhiên, bên cạnh dòng người Hoa đổ về Trung Quốc, với nhiều người Việt gốc Hoa thực dụng hơn đã coi đây là cơ may để đến được thế giới Tây phương - điều mà những người Hoa ở Đông Nam Á hẻo lánh không mơ tới được (BBCVetnamese.com, 10-2-2009).
([22]) Chỉ trong vòng vài tháng, 17 vạn người Hoa đã rời Việt Nam đi Trung Quốc (Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 86). Sau khi Trung Quốc đóng cửa biên giới (12-7-1978), nhiều người Hoa vẫn cố vượt biên. Theo tính toán của Ramses Amer “thì con số người Hoa ra đi cụ thể từ tháng 4-1978 đến cuối tháng 12-1979 là khoảng trên dưới 25 vạn người” (Người Hoa ở Việt Nam và quan hệ Trung - Việt, Kuals Lumpur, 1991, tr. 46).
([23]) Hội đồng tương trợ kinh tế COMECON đã nhận đảm đương giúp Việt Nam 21 công trình lớn mà Trung Quốc bỏ dở.
[24]Ramses Amer: "Sino-Vietnameses Normalization in the Light of Crisis of the late 1970s", In: the "Pacific Affairs", Vol.67, N3, Fall 1994, University of British Columbia Canada, 1994,  tr. 360-361
[25] Lưu Văn Lợi: 50 năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), Sđd, Tập 2, tr. 113
([26]) Từ năm 1976, Trung Quốc giảm dần và đến năm 1978 thì cắt hẳn viện trợ: Khoảng 500 triệu đô la thiết bị và 300 triệu đô la/năm hàng hoá, vật tư, trong đó có 34 vạn tấn lương thực, 43 vạn tấn xăng dầu, 30 triệu mét vải và 1 vạn 5 tấn bông, 14 vạn tấn phân bón, 15 vạn tấn ximăng, 20 vạn tấn than mỡ v.v...
[27] Ramses Amer: "Sino-Vietnameses Normalization in the Light of Crisis of the late 1970s", In: the "Pacific Affairs", Vol.67, N3, Tlđd, tr.32.
[28]"Nghiên cứu vấn đề quốc tế", Tạp chí Nghiên cứu vấn đề quốc tế, Sở nghiên cứu các vấn đề quốc tế của Trung Quốc, số 2, Bản dịch, Lưu tại Phòng Thông tin- tư liệu, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng, 198),  tr. 12
[29]Nghiên cứu vấn đề quốc tế", Tạp chí Nghiên cứu vấn đề quốc tế, Tlđd, tr.12.
[30]Nghiên cứu vấn đề quốc tế", Tạp chí Nghiên cứu vấn đề quốc tế, Tlđd, tr.12.
[31] Bộ Chính trị: Nghị quyết số 11, ngày 19-9-1978, "Về tổ chức công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam", Lưu tại Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng,  tr. 3
[32]Ban Bí thư: Chỉ thị số 58, ngày 8-12-1978 về cuộc vận động "Phát huy bản chất tốt đẹp nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam", Lưu tại Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng,  tr. 2
[33]Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5(25-12-1978), Lưu tại Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 2
([34]) Theo số liệu của Ban Tổng kết quân sự - Bộ Quốc phòng thì từ tháng 5-1975 đến cuối năm 1975, chúng gây ra 110 vụ xung đột, lấn chiếm 20 điểm biên giới. Năm 1976, chúng gây ra 280 vụ, tăng 2,7 lần so với năm 1975, năm 1977 gây ra 1.850 vụ, tăng 6 lần so với năm 1976.
[35]http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4n1n1n4n31n343tq83a3q3m3237nvn&cochu
[36] Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 113.
[37]Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1975 - 1995), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998, Tập 2, tr. 110.
[38] Cuộc xung đột Trung Quốc - Việt Nam, Chuyên san, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, 1980, tr. 9.
[39] Gilbert Padoul: Chính sách ngoại giao của Trung Quốc sau Mao Trạch Đông, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, tr.2.
[40] Michael Lelfer: Xét nghiệm lại cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba, Bản dịch, Lưu lại Thư viện Quân đội, 1979, tr.1.
([41]) Đảng và Mặt trận đoàn kết Quốc gia vì một Campuchia độc lập, trung lập, hoà bình và hợp tác.
([42]) Mặt trận Giải phóng Nhân dân Khơme
([43]) Phái Campuchia Dân chủ
([44]) Đường biên giới với Trung Quốc được phân định trong các Công ước ngày 26- 6-1887 và ngày 20-6-1895 giữa Chính quyền Pháp (đại diện cho Việt Nam lúc bấy giờ) và nhà Thanh (đại diện cho Trung Quốc). Công ước hoạch định biên giới Pháp - Thanh  ngày 26-6-1887 đã hoạch định lại một số đoạn biên giới tiếp giáp giữa Bắc Kỳ với Vân Nam và nói rõ đường kinh tuyến 105°43' là đường phân chia chủ quyền các đảo. Công ước bổ sung hoạch định biên giới Pháp - Thanh  ngày 20-6-1895 thống nhất hoạch định các đoạn biên giới mà hai bên còn gác lại trong các văn bản hoạch định trước và hoạch định mới đoạn biên giới giữa Bắc Kỳ và Vân Nam từ sông Đà đến sông Mê Công. Trên cơ sở của các bản Công ước này, từ năm 1889 đến năm 1897, trên toàn bộ tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Pháp và nhà Thanh đã hai bên đã tổ chức phân giới, xác định 314 vị trí mốc và đã cắm được 341 mốc giới trên thực địa. Nhìn chung, trong quá trình đàm phán thương lượng về biên giới, chính quyền Pháp và nhà Thanh đã vận dụng một số nguyên tắc phổ biến của pháp luật quốc tế cũng như thực tiễn quốc tế trong quá trình xác lập đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung quốc, thực hiện đầy đủ các bước từ xác định nguyên tắc, hoạch định, phân giới và tiến hành cắm mốc trên thực địa cũng như các thủ tục pháp lý khác. Về mặt pháp lý, Công ước năm 1887 và Công ước bổ sung năm 1895 cùng các biên bản, bản đồ phân giới cắm mốc thực hiện hai Công ước là một thể thống nhất các văn bản pháp lý bổ sung cho nhau, cung cấp khá đầy đủ các yếu tố về đường biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.  Như vậy, về cơ bản, hai công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895 thừa nhận đường biên giới lịch sử truyền thống giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong quá trình phân giới cắm mốc, phía Pháp đã nhân nhượng một số vùng lãnh thổ của Việt Nam cho Trung Quốc như Giang Bình, Bát Trang (Quảng Ninh), Đèo Luông (Cao Bằng), Tụ Long (Hà Giang). Trong giai đoạn chế độ Quốc dân đảng ở Trung Quốc, quan hệ biên giới giữa Pháp và Trung Quốc cơ bản ổn định, hệ thống mốc giới được bảo vệ, nhưng lợi dụng tình hình Pháp bị sa lầy và thất bại liên tiếp trong chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Tưởng Giới Thạch đã có hành động di chuyển, phá hoại một số mốc giới, lấn chiếm quản lý nhiều khu vực đất đai sang phía Việt Nam.
[45]Đó là các vấn đề: Ruộng đất xâm canh; rừng cây ở bên kia biên giới; việc chăn nuôi qua biên giới; vấn đề thuỷ lợi, nguồn nước, đánh bắt cá trên sông, suối biên giới; vấn đề vay nợ; vấn đề quốc tịch, kiều dân; vấn đề thông hôn; vấn đề di cư; vấn đề trị an; vấn đề quốc giới.
[46] Lưu Văn Lợi, Việt Nam: Đất - Biển - Trời, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1990, tr.75
[47] Long Việt, "Vietnam - Chia Lanh Border Treaty - a common victory of two nations”, Vietnam Law and Legal Forum, No 65, 1-2000.
[48]Vấn đề kế thừa di sản của các đường biên giới xác lập trong thời kỳ thực dân đã được đặt ra, coi đó là căn cứ chính để các bên đàm phán thoả thuận về một đường biên giới mới - đường biên giới quốc tế giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền. ừ sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời (năm 1945) và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời (năm 1949), trên thực tế hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã duy trì sự quản lý biên giới thực tế cơ bản dựa trên đường biên giới đã được hoạch định bởi hai Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895 và kết quả thực hiện hai Công ước đó (kết quả phân giới, cắm mốc trên thực địa giữa chính quyền Pháp và nhà Thanh), nhằm giữ sự ổn định ở vùng biên giới chung giữa hai nước. Trước năm 1975, Việt Nam trong tình trạng bị chia cắt, cần phải tập trung sức người, sức của vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nên công tác đàm phán, giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ với các nước láng giềng, trong đó có Trung Quốc chưa có điều kiện đặt ra để giải quyết một cách thực chất.
[49] R.V.Pretcot : Những biên giới của Đông Nam Á, Nxb Membuốc, 1977, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Ban Biên giới Chính phủ, tr. 60
([50]) Theo thống kê của Việt Nam công bố trong Bị vong lục của Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam ngày 15-2-1979, thì số vụ xâm phạm vũ trang của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam năm 1978 là 583 vụ, tháng 1 và những tuần lễ đầu tháng 2-1979 có tới 230 vụ (dẫn theo Bị vong lục Bộ Ngoại giao Việt Nam, Báo Nhân dân, ngày 16-2-1979, tr. 4).
[51]Việt Nam và Liên Xô đã Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện (11-1978) có thời hạn 25 năm (mặc nhiên gia hạn 10 năm, nếu một trong hai bên không tuyên bố muốn chấm dứt hiệu lực của Hiệp định trước khi Hiệp định hết hạn một năm), cam kết không ngừng phát triển quan hệ mọi mặt, mở rộng hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học – kỹ thuật giữa hai nước. Điều 6 của Hiệp định ghi rõ: “Trong trường hợp một trong hai bên bị tiến công hoặc bị đe doạ tiến công, thì hai bên kí hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau, nhằm loại trừ mối đe doạ đó và áp dụng các biện pháp thích đáng có hiệu lực, để bảo đảm hoà bình và an ninh của hai nước”.
[52] Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, (1975 - 1995), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998,Tập 2, tr. 122.
([53]) Để trả lời, phía Việt Nam cũng phản kích đánh vào Malipô, Ninh Minh- hai thành phố biên giới của Trung Quốc.
[54]Dẫn theo “Kissinger bàn về Trung Quốc”, Pháp luật, Trang thông tin điện tử báo Pháp luật T.P Hồ Chí Minh, ngày 12-2-2012.
[55] Bộ Ngoại giao: Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, Sđd, tr.91.
[56] Bộ Ngoại giao: Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, Sđd, tr.91.
[57] "Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của những người cầm quyền Trung Quốc", Báo Nhân dân, ngày 18-2-1979, tr. 6.
[58] "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết, kiên quyết đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của bọn phản động Trung Quốc", Báo Nhân dân, ngày 19-2-1979, tr. 6.
[59] "Lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam", (1979), Báo Nhân dân, ngày 5-3, tr. 1.
[60] Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1-1994), “Về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước”, T1, Nội dung chính văn kiện Đảng (1975-2005), Lưu tại Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng, tr.222
[61] Ban Bí thư: Chỉ thị số 69, ngày 6-3-1979  “Về chủ trương của ta trước tình hình bọn phản động Trung Quốc rút quân”, T4, Nội dung chính văn kiện Đảng (1975-2005) , Lưu tại Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng, tr.75.
[62] Ban Bí thư: Chỉ thị số 69, ngày 6-3-1979, Tlđd, tr.75.
[63] Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (khoá IV, ngày 20-9-1979) “Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách”, Lưu tại Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng, ĐVBQ số 494, tr.1

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!