Trong
lịch sử quan hệ ngoại giao của Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là một trong những trục quan hệ hết sức cơ bản, có một vị
trí quan trọng, có ảnh hưởng trực
tiếp, tác động đa chiều, lâu dài đối với sự
phát triển của Việt Nam. Điều này không chỉ do sự chi phối về yếu tố địa lý, mà còn do nhiều yếu
tố chủ quan, khách quan khác nhau, vì vậy, các thể chế Nhà nước của Việt Nam từ
xưa đến nay đều đặt vấn đề ứng xử với Trung Quốc là một trong những mối quan
tâm hàng đầu. Thực tế lịch sử cũng cho thấy, thời kỳ nào Việt Nam có nhận thức
và xử lý quan hệ với Trung Quốc một cách hợp lý, xử lý tốt quan hệ với Trung
Quốc trong mối liên hệ với các quan hệ song phương và đa phương khác, thì Việt
Nam tạo lập được môi trường quốc tế thuận lợi, đảm bảo an ninh, hoà bình cho sự
phát triển của đất nước.
Từ sau năm 1975, quan hệ Việt – Trung bước vào thời kỳ nhiều thăng thầm.
Đây cũng là khoảng thời gian quan
hệ bang giao Việt - Trung cực kỳ phức tạp, không ít khúc mắc, bất hoà, xung đột, tan vỡ rồi lập bang giao... Chính vì tính phức tạp ấy mà
quan hệ Việt - Trung từ sau năm 1975 đến
nay thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà khoa học trong và
ngoài nước.
Nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhiều cuốn sách, bài báo, công trình nghiên cứu….
đã được công bố với mục đích dựng lại bức tranh toàn diện của mối quan hệ, đưa
ra những đánh giá khách quan, khoa học với quá khứ lịch sử. Bất chấp cố gắng
của các nhà nghiên cứu, không phải mọi vấn đề của quan hệ Việt - Trung đã trở
nên rõ nét và sáng tỏ. Ý kiến, quan điểm của các nhà khoa học còn nhiều chỗ
chưa đồng nhất, thậm chí rất khác xa nhau, hoặc đối lập nhau.
Nỗ lực đóng góp cho
việc làm rõ quan hệ chính trị - ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc qua các giai
đoạn khác nhau phải kể đến các các
công trình của các nhà nghiên cứu trong nước, trong đó nhóm công trình nổi bật,
có số lượng khá lớn là các công trình nghiên
cứu về ngoại giao Việt Nam với tên tuổi của các nhà nghiên cứu ngoại giao quen
thuộc: Nguyễn Đình Bin, Nguyễn Duy Niên, Lưu Văn Lợi, Nguyễn Phúc Luân… với các
công trình: "Ngoại giao Việt Nam
1945-2000" (Nguyễn Đình Bin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); “Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam"
(Lưu Văn Lợi, tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998); "Ngoại giao Việt Nam trong
thời đại Hồ Chí Minh" (Nguyễn
Đình Bin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000); “Ngoại giao Việt Nam hiện
đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do 1945-1975” (Nguyễn Phúc Luân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001)… Các công
trình này tập trung trình bày chính sách đối ngoại và các quan hệ ngoại giao
của Việt Nam từ năm 1945 trở đi và trong mục tiêu chung ấy, điểm qua một cách
khái quát tiến trình lịch sử của mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ sau khi
hai nước chính thức đặt quan hệ ngoại giao. Tuy nhiên, do những lý do khách
quan, chủ quan, một số tác giả tránh nói cụ thể đến mặt trái của mối quan hệ; đặc
biệt, giai đoạn nhạy cảm trong quan hệ hai nước (1975-1978; 1979-1991) còn ít
được đề cập đến.
Cuốn sách trắng “Sự thật
về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” (Bộ Ngoại giao, 1979) đã
mô tả quan hệ Việt – Trung từ khi thiết lập (1950) đến năm 1980. Tuy nhiên,
cuốn sách chủ yếu nhấn mạnh những bất đồng trong quan hệ hai nước, mà ít chú ý
đến những mặt tích cực, bởi lẽ cuốn sách được viết trong bối cảnh mâu thuẫn
giữa hai nước đã lên đến đỉnh điểm.
Trong cuốn "Việt Nam một tiêu điểm của chiến tranh tư
tưởng phản cách mạng" (Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1983), sau khi trình bày một
cách hệ thống những mâu thuẫn trong
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc và chính sách chống Việt Nam từ phía Ban lãnh đạo
Trung Quốc, tác giả Nguyễn Thành Lê khẳng định rằng, đi đôi với chiến tranh lấn chiếm
lãnh thổ, Trung Quốc tiến hành một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt chống Việt Nam, trong đó chiến tranh tư
tưởng, chiến tranh tâm lý là một khâu quan trọng của kiểu chiến tranh
nhiều mặt ấy[1].
Tương tự như cuốn sách Sự
thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, do được viết trong thời kỳ quan hệ Việt - Trung căng
thẳng, mâu thuẫn, nên cuốn sách mang dấu ấn băng giá của quan hệ, một số sự
kiện được tác giả nhìn nhận, đánh giá chưa thật khách quan, thiên về nhấn mạnh
mặt trái của mối quan hệ.
Các công trình nghiên cứu về an ninh và những
vấn đề lãnh thổ, lãnh hải giữa Việt Nam – Trung Quốc là nhóm công trình khá đồ
sộ với nhiều công trình có giá trị khoa học. Đó là các công trình: "Cuộc xung đột Trung Quốc - Việt Nam"
(Chuyên san, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội); Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa: Lãnh thổ Việt Nam"
(Bộ Ngoại giao, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984); “Hoàng Sa, Trường Sa" (Nguyễn Quang Thắng, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 1998)… Ngoài ra, Tạp chí Lịch sử quân sự đã ra số đặc biệt - số tháng 6-1988 với các bài viết xung quanh việc tranh chấp hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa sau khi xảy ra cuộc chiến trên biển của Trung Quốc
với Việt Nam tháng 3-1988. Nhìn chung, trong các công trình liệt kê, các tác giả đã dẫn chứng nhiều tài liệu thư tịch cổ, bản đồ cổ, những bộ sử chính thống
của Nhà nước phong kiến Việt Nam, các
tài liệu của Chính quyền Pháp, của Chính quyền Sài Gòn... để khẳng định rằng:
Chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo là không thể tranh cãi; việc Trung
Quốc liên tục tranh chấp, sử dụng vũ lực đánh chiếm các quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam và làm tổn
hại sâu sắc đến quan hệ láng giềng hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Bàn về chủ quyền đối với
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, tập thể tác giả gồm những nhà nghiên cứu có
uy tín: Nguyễn Nhã, Nguyễn Đình Đầu, Lê Minh Nghĩa, Từ Đặng Thu Minh, Vũ Quang
Việt đã cho ra mắt độc giả cuốn sách “Hoàng
Sa, Trường Sa là của Việt Nam” (Nxb Trẻ, 2008). Trên các chứng cứ, cơ sở lịch sử, pháp lý quốc
tế rõ ràng, xác đáng, các tác giả chỉ ra rằng, chủ quyền của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là hoàn toàn rõ ràng, không thể có bất kỳ một
nghi ngờ và tranh luận nào. Việc Trung Quốc chiếm đóng, tranh chấp và khẳng
định chủ quyền trên hai quần đảo này là hết sức phi lý, coi thường luật pháp và
dư luận quốc tế, không có lợi gì cho hòa bình, an ninh ở khu vực và là nguyên
nhân trực tiếp đe dọa, làm tổn hại đến quan hệ Việt - Trung.
Năm 2012, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông xuất bản
cuốn sách “Dấu ấn Việt Nam trên biển Đông”
(Trần Công Trực chủ biên) – một cuốn sách vừa mới xuất bản đã thu hút được sự
chú ý của bạn đọc và giới nghiên cứu. “Dấu
ấn Việt Nam trên biển Đông” không phải là cuốn đầu tiên, duy nhất viết về vấn
đề biển đảo của Việt Nam, song điểm khác biệt của công trình này so với nhiều
công trình trước đó là ở chỗ nó đã tiến xa hơn, tập hợp những vấn đề về biển
Đông, trình bày theo một logic chặt chẽ, xâu chuỗi và làm nổi bật sự liên hệ
của các vấn đề, sự kiện được đề cập. Chương 3 của cuốn sách đề cập sâu đến quá
trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa, khẳng định quan điểm pháp lý của Việt Nam với tư cách là nước đầu tiên
trong lịch sử thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này khi nó còn là đất vô
chủ. Việc thực thi chủ quyền của Việt Nam phù hợp với các nguyên tắc của luật
pháp quốc tế và Công ước luật Biển quốc tế 1982. Cuốn sách cũng chỉ ra điểm
khác biệt về tuyên bố chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc: Việt Nam theo
nguyên tắc chiếm hữu thực sự, còn Trung Quốc thì theo nguyên tắc chủ quyền lịch
sử.
Viết về quan hệ Việt - Trung có số lượng đông đảo các
nhà sử học, các nhà nghiên cứu
Trung Quốc, Nga, Mỹ và các nước khác... Khai
thác nguồn tài liệu này, có thể thu nhận được những thông tin quý báu về quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc và quan hệ đối ngoại
của Trung Quốc nói chung và với Việt Nam nói riêng ở những thời kỳ khác nhau,
trên quan điểm của những nhà nghiên cứu nước ngoài.
Trong công trình "China
and the First Indo-China War, 1950-54" (The China Quarterly, No. 133, Mar, 1993), tác giả Chen Jian đưa ra những nhìn nhận, đánh giá về vai trò, tính toán của
Trung Quốc tại Hội nghị Geneve 1954. Theo quan điểm của Chen Jian,
sau nhiều thảo luận, thoả thuận,
cuối cùng vào ngày 20-7-1954, các bên tham gia Hội nghị Giơnevơ cũng đạt được những nhất trí mang tính then chốt,
thể hiện sự hòa hoãn và tư tưởng “chung sống hoà bình” giữa các nước lớn trong
thương lượng. Nội dung bản Hiệp định đảm bảo lợi ích cho mọi bên tham gia, trừ
người chiến thắng. Trung Quốc là nước được hưởng lợi nhiều nhất từ kết quả của
Hội nghị, “người chiến thắng
thực sự là Chu Ân Lai. Ông rời Geneva gần như với tất cả mọi thứ đã được
tiên liệu và dự đoán trước”[2].
Trong những năm 1990-1993, sau khi quan hệ Việt
- Trung đã bình thường hóa, phía Trung Quốc công bố một seri những công trình
về quan hệ giữa hai nước (chủ yếu được xuất bản bởi các Nhà xuất bản địa phương): “Diễn biến quan hệ Trung - Việt trong 40 năm
qua” (Quách Minh chủ biên, Nxb Nhân dân Quảng Tây, 1990); “Kháng Mỹ, viện Việt thực lục” (Vương
Hiền Căn, Nxb Văn hóa Quốc tế, Bắc Kinh, 1990); “Chín lần xuất quân lớn của Trung Quốc" (Nxb Văn nghệ Tứ Xuyên, 1992); “Sự thật về sáu cuộc chiến tranh chống xâm lược của nước Trung Hoa
mới” (Lý Kiện, Nxb Phát thanh và Truyền hình Trung Quốc, 1992); “Mười năm chiến tranh Trung - Việt"
(Mân Lực, Nxb Đại học Tứ Xuyên, 1993); “Khai
quốc đệ nhất chiến” (Trần Chí Vũ, Nxb Hoa Linh, Bắc Kinh, 1993)… Các công
trình này có nhiều nội dung thiếu khách quan, nhiều số liệu sai lệch, nhiều sự kiện diễn
giải bất chấp cơ sở khoa học, thậm chí bẻ cong hiện thực lịch sử, bỏ qua những
nguyên tắc nghiên cứu khoa học để đạt mục tiêu chính trị đơn thuần.
Một trong những công trình đó là cuốn "Diễn biến quan hệ Trung - Việt trong 40 năm
qua" do tác giả Quách Minh chủ biên. Tập thể các tác giả đã trình bày
quan hệ Việt - Trung qua các giai đoạn khác nhau, tập trung đi sâu vào những
bất đồng trong quan hệ hai nước với các vấn đề biên giới trên bộ, vấn đề Hoa
kiều, vịnh Bắc Bộ, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, "vấn đề Campuchia"…
Các tác giả đã cố gắng chứng minh rằng, tất cả những tranh chấp, xung đột giữa
hai nước có nguyên nhân chủ yếu từ sự thiếu thiện chí và các hành động vi phạm
thỏa thuận từ phía Việt Nam (?). Khi nói về vấn đề tranh chấp xung quanh hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các tác giả đã đưa ra những "chứng
cứ" được lắp ghép thiếu trung thực từ thư tịch cổ, đưa ra những "bằng
chứng" về "sự công nhận" của các Chính phủ, các tổ chức khu vực
hoặc quốc tế, các sách bách khoa, các bản đồ quốc tế... của một số nước để
chứng minh cho chủ quyền của Trung Quốc, dù loại bằng chứng này không có giá
trị pháp lý. Các tác giả còn nhắc lại đề nghị của Liên Xô bổ sung cho dự thảo
Hòa ước yêu cầu trả lại cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại
Hội nghị San Francisco tháng 9-1951, mặc dù đề nghị này đã bị Hội nghị bác bỏ
với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và văn kiện của Hội nghị ký
ngày 8-9-1951 chỉ ghi về hai quần đảo là “Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với hai quần đảo”.
Cuốn sách cũng không đả động đến sự kiện cũng tại Hội nghị này, ngày 7-9-1951,
Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VNCH Trần Văn Hữu đã trịnh trọng khẳng
định “chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam đối với các quần đảo Trường Sa,
Hoàng Sa”. Đối với tuyên bố đó, không một nước nào có ý kiến phản
đối hoặc bảo lưu ý kiến phản đối, chứng tỏ cộng đồng quốc tế đã thừa nhận hai
quần đảo không phải là lãnh thổ của Trung Quốc. Cuốn sách cũng không nhắc đến
sự kiện trong Hòa ước ngày 28-4-1952 giữa Trung Quốc và Nhật Bản đã ghi nhận
việc Nhật Bản từ bỏ mọi quyền đối với hai quần đảo như nội dung được ghi trong
văn kiện Hội nghị San Francisco mà không hề yêu cầu Nhật Bản trả lại cho Trung
Quốc hai quần đảo.
Các tác
giả cuốn sách trên còn dẫn bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 tán
thành bản Tuyên bố của nước CHND Trung Hoa quy định lãnh hải Trung Quốc rộng 12
hải lý, Tuyên bố năm 1965 của nước Việt Nam DCCH phản đối Mỹ quy định khu vực
chiến đấu của lực lượng vũ trang Mỹ ở Đông Dương, trong đó có nói phạm vào
"vùng biển Tây Sa của Trung Quốc" để nói rằng, "Việt Nam đã công
nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc". Về
vấn đề này, Chính phủ nước Việt Nam đã không dưới một lần khẳng định: 1- Đó là
“sự xuyên tạc thô bạo, bởi vì tinh thần và
lời văn của công hàm ấy chỉ đóng khung trong việc công nhận lãnh hải của Trung
Quốc là 12 hải lý”[3];
2- “Lúc này, cuộc chống Mỹ cứu nước đòi hỏi nhân dân Việt Nam chiến đấu
bằng mọi hình thức nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình, lại thêm lúc ấy Việt
Nam và Trung Quốc có quan hệ hữu nghị với nhau. Tuyên bố của Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 9-5-1965 chỉ có ý nghĩa trong bối cảnh lịch sử
đó mà thôi”[4]. Giáo
sư Luật học Gerardo Martin C.Valero bàn rõ thêm: "Tính chất ràng buộc của
một tuyên bố như vậy sẽ được quyết định theo hoàn cảnh mà nó được đưa ra và
không chỉ kết luận từ việc phân tích nguyên văn"[5].
Như vậy, các Tuyên bố năm 1958 và năm 1965 phải được đặt vào bối cảnh lịch sử cụ thể của những năm 50-60 để hiểu nội
dung, ẩn ý và tinh thần cốt yếu của nó, song các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã
sử dụng những tư liệu này thiếu khách quan, không đặt vào hoàn cảnh lịch sử cụ
thể và mối quan hệ đặc thù giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa tại thời điểm bấy giờ để soi chiếu, đánh giá.
Cuốn sách "Mười năm chiến tranh Trung - Việt" của tác giả Mân Lực đã chứa
đựng nhiều nội dung trái ngược sự thật lịch sử. Tác giả Mân Lực miêu tả những
xung đột biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong khoảng thời gian
từ năm 1979 đến năm 1989 dưới khía cạnh của một cuộc chiến tranh mười năm đánh
trả lại sự "xâm chiếm đất đai thường xuyên" của "tiểu bá"
Việt Nam (?). Xuyên suốt diễn biến của "cuộc chiến tranh mười năm" đó
là sự tuyên dương tinh thần chiến đấu "anh dũng" và "cảm tử"
của Giải phóng quân Trung Quốc, sự hùng hồn cáo buộc "Việt Nam "tiểu
bá" theo "đại bá" Liên Xô thực hiện âm mưu bành trướng, bá
quyền, làm tổn hại và phá vỡ tình hữu nghị Trung - Việt. Về vấn đề Hoàng Sa,
Trường Sa, tác giả Mân Lực gọi hành động tiếp quản Trường Sa của Hải Quân Việt Nam DCCH
vào tháng 4-1975 là “ngang nhiên chiếm đóng 4 đảo trong quần đảo Nam Sa của
Trung Quốc”. Tác giả này cũng viện dẫn bức thư năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng như một chứng cứ về sự “xác nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh
thổ Trung Quốc”, chỉ trích Việt Nam “tiền hậu bất nhất ngang nhiên tuyên truyền
đây là lãnh thổ của họ, sửa đổi bản đồ vẽ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
vào bản đồ Việt Nam”. Cùng mục đích như cuốn "Chín lần xuất quân lớn của Trung Quốc", nên tất nhiên, phần lớn số liệu, sự kiện, đánh giá, nhận định
của tác giả Mân Lực thiếu chính xác, sai lệch và bị bóp méo.
Hai tác giả Sa Lực, Mân Lực trong sách "Chín lần xuất quân lớn của Trung Quốc"
đã nhìn nhận nhiều thời điểm trong quan hệ
giữa cách mạng hai nước với khía cạnh "xuất quân" chinh phạt của
Trung Quốc, phủ định hoàn toàn viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam, khẳng định
vai trò quyết định độc nhất của Trung Quốc trong ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ. Cuốn sách có cách viết không chỉ nhằm tới mục
tiêu khẳng định chủ quyền đối với một số vùng đất, vùng biển của Việt Nam, mà
còn nhằm kích động tinh thần dân tộc trong quân đội và nhân dân Trung Quốc đối
với "vùng lãnh thổ bị Việt Nam chiếm".
Để phản
bác lại những luận điệu trái với sự thật của phía Trung Quốc về quan hệ Việt -
Trung, tháng 2-1996, Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản cuốn sách "Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc
và mối quan hệ Việt-Trung”, nhằm “làm rõ một số vấn đề lịch sử trong
quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc”[6]
thông qua việc “trình bày khách quan, trung thực các sự kiện, nhằm góp một
tiếng nói, một cách nhìn nhận đúng đắn, khách quan trong quan hệ giữa hai nước”[7].
Cuốn sách đã lần lượt đưa ra những con số, sự kiện về quan hệ Việt - Trung
trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954), trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975), về chiến tranh biên giới phía Bắc (1979), về vấn đề Hoàng Sa,
Trường Sa (1974-1995), phản bác lại những quan điểm sai trái của Trung Quốc và
kết luận: “Lịch sử là hiện thực khách quan đã diễn ra trong quá khứ. Những người
cầm bút Việt Nam khi viết cuốn sách này đã nói đúng sự thật, để góp phần xây
dựng, củng cố quan hệ hữu nghị và hợp
tác giữa hai nước”[8].
Năm 1993, tác giả Hiểu Bình và Thanh Ba công
bố công trình "Quân đội Trung Quốc
liệu có đánh thắng trong cuộc chiến tranh tới không?" (bản dịch, Tủ sách Tổng cục hai, Bộ
Quốc phòng, 1994) khảo cứu về quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc, trong đó đặc biệt chú ý đến các bất đồng của hai nước
có liên quan đến biển Đông. Hai tác giả Hiểu Bình và Thanh Ba viết: "Nếu
nhà cầm quyền Việt Nam không có nhượng bộ gì trong vấn đề Nam Sa (Trường Sa - TG), thì Trung Quốc và Việt
Nam nhất định sẽ có đánh nhau"; "thập kỷ 90 là thời kỳ then chốt để
giải quyết vấn đề Nam Sa. Thời kỳ này qua đi, có thể Trung Quốc sẽ mất đi một
dịp may lịch sử". Cuốn sách còn cho biết rằng, năm 1992, một hội nghị quân
sự họp ở miền Nam Trung Quốc đã định ra
những nguyên tắc tác chiến, chiến thuật, kết hợp thủ đoạn đánh và dọa,
"nhanh chóng đánh đuổi "quân chiếm đóng nước ngoài" ra khỏi Nam
Sa" (ám chỉ Việt Nam).
Tác giả Hồ Tài trong bài viết "Quan hệ Trung - Việt sau bình thường hóa:
Nhìn lại thời gian qua và triển vọng" (Tạp chí Vấn đề quốc tế, Sở nghiên cứu các vấn đề quốc tế tỉnh Vân Nam, số 2-1993, bản dịch, lưu tại Thư
viện Quân đội), khi điểm lại một số nét chính trong quan hệ Việt - Trung
từ năm 1991 đến năm 1993 đã khẳng định: "Việc khôi phục và xây dựng mối
quan hệ Trung - Việt láng giềng thân thiện là hợp thời cuộc, thuận lòng dân,
chân trời bao la, tiền đồ hấp dẫn, nếu cả hai bên đều tăng cường hợp tác thực
chất đa phương vị, nhiều tầng nấc và nhiều hình thức"[9].
Tuy nhiên, tác giả không khách quan, cực đoan khi cho rằng, nhờ phát triển quan
hệ với Trung Quốc sau bình thường hóa mà
"Việt Nam đã có thời cơ để xả hơi và có địa dư để xoay xở, tìm kiếm sự ủng
hộ của Trung Quốc để tự bảo tồn, làm dịu áp lực từ bên ngoài"[10].
Trên các tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, tạp chí
Nghiên cứu châu Á - Thái Bình Dương, tạp chí Quốc phòng, báo Giải phóng quân,
Nhân dân Nhật báo…của Trung Quốc cũng liên tục đăng tải các bài nghiên cứu về
quan hệ Việt - Trung. Các bài viết đặc biệt chú trọng đến những vấn đề liên
quan đến biển Đông. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1988 - 1998, trên các tạp
chí kể trên đã có hơn 70 bài viết về vấn đề này. Các bài viết như: "Các quốc gia xung quanh khai thác các nguồn
dầu lửa ở Nam Sa của chúng ta như thế nào?" (Tạp chí Nghiên cứu Đông
Nam Á số 1-1991); "Những
quan điểm về cuộc tranh chấp Nam Sa" (Tạp chí nghiên cứu Châu Á- Thái
Bình Dương, số 2-1994); “Quê hương thứ
hai của chúng ta" (Tạp chí Quốc phòng, số 1-1994)… chủ yếu đề cập đến
các cơ sở lịch sử về quyền sở hữu của Trung Quốc trên biển Đông, dùng ngòi bút
chỉ trích các "đối phương" có tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc,
trong đó có hơn nửa số bài chĩa mũi nhọn vào Việt Nam, mô tả Việt Nam như một
đối thủ hiếu chiến nhất của Trung Quốc, "đang xâm lược các vùng biển của
chúng ta (Trung Quốc - TG) bằng quân
sự, cố gắng cướp đoạt toàn bộ tài nguyên bằng sức mạnh". Những hành động
của Việt Nam trên biển Đông, "tác hại" của nó đối với quan hệ Việt -
Trung là chủ đề chính của nhiều bài báo. Từ năm 1999 trở đi (sau khi hai nước
ký Hiệp định biên giới trên bộ), mặc dù mật độ của các bài báo không thưa đi,
song ngôn từ, giọng văn đã ôn hòa hơn, tuy nhiên các bài viết này vẫn không
ngừng chứng minh và khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông như một
điều đã được thừa nhận.
Quan hệ Việt - Trung là một trong những quan
hệ song phương thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa
học trên thế giới; trong đó, chủ đề sự giúp đỡ, ủng hộ của Trung Quốc đối với
Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh biên giới
Việt - Trung 1979, tranh chấp Việt Nam - Trung Quốc xung quanh hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa, ảnh hưởng, tác động của
các tranh chấp tới quan hệ Việt - Trung… là những chủ đề được nghiên cứu khá kỹ
lưỡng với nhiều góc độ tham chiếu khác nhau.
Nhìn chung, các tác giả
đã có những đóng góp to lớn, làm sáng tỏ nhiều nội dung, vấn đề, sự kiện trong
quan hệ Việt - Trung. Tuy nhiên, ở một số công trình, do nhiều
nguyên nhân chủ quan, khách quan, các tác giả đã có những quan điểm, đánh giá
chưa sát với thực tiễn của mối quan hệ. Ví dụ như trong cuốn: "Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến
tranh Đông Dương lần thứ nhất, Geneva
1954" (Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1981), khi trình bày về viện trợ quốc tế cho Việt Nam, tác giả Francois Joyaux đã đồng nhất viện trợ của Trung Quốc với Liên Xô. Francois Joyaux viết: "Trong năm đó - tức năm 1953, 500 xe vận tải được giao
cho Việt Minh, tăng khối lượng xe vận tải cho Việt Minh lên khoảng 1.000
xe"[11].
Có điều, 500 xe tải đó không phải của Trung
Quốc mà của Liên Xô và tính chung trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Pháp,
Việt Nam chỉ nhận được tất cả có 745 xe vận tải (chủ yếu từ Liên Xô), chứ không
phải 1.000 xe. Tác giả Francois Joyaux cũng khẳng định: "Cuối tháng 2 -1954, Trung Quốc lại
giúp đỡ trang bị cho một trung đoàn pháo phòng không 37 ly, mỗi khẩu pháo có 20 pháo thủ
Trung Quốc phục vụ"[12].
Thực ra, số pháo cao xạ đó là do Liên Xô giúp đỡ (xem thêm "Chiến đấu trong vòng vây", Võ
Nguyên Giáp, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998); hơn nữa, thời kỳ này, pháo
thủ Trung Quốc không phục vụ tại chiến trường Việt Nam. Cũng giống như vậy, nhà
nghiên cứu Ronal D H. Spector đã cung cấp một thông tin như sau: "Người
Trung Quốc đang tích cực khôi phục và xây dựng đường hữu tuyến vào Việt Nam...
Ước chừng có khoảng 15.000 cố vấn và kỹ thuật viên Trung Quốc giúp đỡ huấn
luyện và tổ chức các đơn vị quân chính quy của Việt Minh"[13]
(thời gian là năm 1950- TG). Thực ra,
Trung Quốc chỉ giúp Việt Nam làm đường trong những năm 1966-1967, còn trong
kháng chiến chống Pháp, Trung Quốc chỉ cử sang Việt Nam có 79 cố vấn quân sự (với bí danh là Đoàn
công tác Hoa Nam do Vi Quốc Thanh làm Trưởng đoàn, có mặt tại Quảng Uyên, Cao
Bằng ngày 12-8-1950), chứ không phải 15.000 người như
Ronal D H. Spector đã viết (xem thêm “Sự
thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và mối quan hệ Việt-Trung, Nxb
Đà Nẵng, 1996, tr. 21). Tương tự như vậy, tác giả L.A Patti trong cuốn Tại sao Việt Nam? (Nxb Đà Nẵng, 1996)
cũng có những nhầm lẫn khi viết về viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam trong
chiến dịch Điện Biên Phủ: “Trung Cộng đã cung cấp cho Việt Nam khoảng 60 súng
cao xạ 37 ly do Nga chế tạo, các thiết bị rada và nhiều khẩu đội Kachiusa (súng
phóng roket nhiều nòng) do người Trung Quốc điều khiển để bảo vệ 100 pháo 100
ly (của Mỹ sản xuất) bố trí ở các sườn núi bao quanh Điện Biên Phủ”[14]
và “người Trung Quốc còn góp thêm 1.000 xe vận tải Molotova đưa qua đường bí
mật từ Mông Tự, Trung Quốc tới Điện Biên Phủ”[15]. Bình
luận về viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam, A. Patti viết: “Đến năm 1950, Mao đã ở trong
thế có thể giúp đỡ ông Hồ
qua đường biên
giới phía Bắc Việt Nam. Ông Hồ không còn bị cô lập như trước, ông đã có rất nhiều đồng minh, trước hết là Trung Quốc và sau đó là Liên Xô, một sân bóng mới đã bắt đầu”[16].
Tuy nhiên, L.A Patti cũng sai lầm cả về thông tin, nguồn và số lượng viện trợ
khi cho rằng: 1). 1.000 xe vận tải Molotova là của Trung Quốc cung cấp cho Việt
Nam; 2). Các khẩu đội Kachiusa trong chiến dịch Điện Biên Phủ là do pháo thủ
Trung Quốc điều khiển.
Chủ đề biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa và thái
độ của Việt Nam, Trung Quốc cùng những bên liên quan khác được các nhà nghiên
cứu khai thác khá kỹ lưỡng. Tác giả YEE. Herberts trong cuốn "Những động cơ có tính toán và chiến lược của
Trung Quốc trong cuộc chiến tranh biên giới Trung - Việt" (bản dịch,
lưu tại Thư viện Quân đội) và Ilin.M.Đ với cuốn "Bắc Kinh - Kẻ thù của hòa bình, hòa dịu và
hợp tác quốc tế" (Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1984), sau khi trình
bày một cách tổng quát về cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc Việt Nam
(1979), phân tích cặn kẽ tính toán của Trung Quốc qua cuộc chiến, phân tích
chiến lược của Trung Quốc đối với Việt Nam và Đông Dương, đã chỉ ra rằng, với
chính sách ấy, Trung Quốc đi ngược lại xu thế hòa bình, hữu nghị và hợp tác
quốc tế, gây nên tình hình mất ổn định đối với khu vực.
Giáo sư Monique Chemillier Gendereaur - Chủ
tịch Hội luật gia châu Âu đã có những đóng góp quan trọng khi chỉ ra những cơ
sở lịch sử và hiện thực đối với phân định chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa trong công trình "Chủ
quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" (Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1998). Đây là một công trình nghiên cứu khoa học độc lập của một
học giả lớn, phân tích lập luận của các bên liên quan đến cuộc tranh chấp phức
tạp này dựa vào cơ chế giải quyết tranh chấp theo luật quốc tế, đặc biệt là
Công ước về Luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc. Sau khi phân tích các bằng
chứng cụ thể của hai bên liên quan là Việt Nam và Trung Quốc, Giáo sư Monique
Chemillier Gendereaur khẳng định: "Khi có Hiệp ước bảo hộ của Pháp năm
1884, Việt Nam đã nắm giữ không có cạnh tranh và trong khoảng gần hai thế kỷ một
quyền (un dronit) đối với các quần đảo (Hoàng
Sa, Trường Sa - TG) theo đúng chế độ luật pháp của thời kỳ đó"[17]
và "các quyền của Việt Nam lâu đời hơn,
vững chắc hơn, mặc dù các đòi hỏi của Trung Quốc đã được cụ thể hóa nhờ vào việc chiếm đóng bằng vũ lực cách đây
39 năm đối với một bộ phần quần đảo và cách đây 21 năm với bộ phận kia (so với năm 1996 - TG)"[18].
Tập thể tác giả Valencia.M.J, Vandyke.J.M,
Ludwig.N.A trong sách "Chia sẻ tài
nguyên ở biển Nam Trung Hoa" (bản dịch, lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội),
khi lý giải chính sách và thái độ của Trung Quốc trên biển Đông đã đưa ra một
trong những nguyên nhân của tình trạng Trung Quốc lấn lướt Việt Nam là
"kết quả của một đợt thủy triều dâng cao của chủ nghĩa dân tộc có thể đã
được sử dụng để thay thế chủ nghĩa xã hội như là một chất kết dính xã hội mới
được ưa thích hơn"[19].
Cũng theo quan điểm này, những cải cách kinh tế mà Đặng Tiểu Bình thúc đẩy đã
đặt những nhà bảo thủ Trung Quốc vào thế phòng thủ và họ đang sử dụng những vấn
đề của chủ nghĩa dân tộc, chẳng hạn như chủ quyền đối với Trường Sa như là một
phương thức để tái khẳng định chính họ[20].
Các tác giả cũng chỉ ra sự nguy hiểm, đe dọa trực tiếp tới an ninh, ổn định của
khu vực Đông Nam Á của các tranh chấp và cho rằng, các nỗ lực giải quyết mới
chỉ chủ ý đơn thuần yếu tố kỹ thuật, mà chưa tập trung vào điểm cốt lõi: Chủ quyền lãnh thổ và
khai thác tài nguyên thiên nhiên. Do vậy, các nỗ lực này có tác dụng hạn chế vì
trên thực tế đã không ngăn chặn được các hoạt động đơn phương. Để khắc phục tình trạng này, nhóm tác giả đề xuất
một cơ chế hợp tác đa phương trong khu vực tranh chấp theo các nguyên tắc: Các
tuyên bố về chủ quyền ở biển Đông đều được công nhận và giải pháp tạm thời
không ảnh hưởng đến giải pháp cuối cùng; không có các hoạt động quân sự; tài nguyên
thiên nhiên được khai thác và chia xẻ theo nguyên tắc tự nguyện và công bằng.
Tuy nhiên, rất dễ nhận thấy rằng, giải quyết vấn đề biển Đông theo phương thức
này có nhiều điểm bất hợp lý, trong đó có sự phụ thuộc vào “sức nặng chính trị”
của các bên tranh chấp, vì thế, sẽ mang lại nhiều lợi thế cho Trung Quốc - quốc
gia có các chỉ số so sánh về tiềm lực kinh tế, quân sự vượt trội so với các
quốc gia tranh chấp khác. Giải quyết tranh chấp theo phương thức này còn không
khả thi ở chỗ: Các bên tranh chấp còn
lại phải tôn trọng và công nhận những yêu sách của bất hợp lý của Trung Quốc
trên toàn bộ biển Đông, nhưng tất yếu không một bên trong tranh chấp nào chịu
chấp nhận từ bỏ chủ quyền. Phân chia tài nguyên theo phương thức này cũng rất
phức tạp, không có sự khác biệt căn bản so với đàm phán xác định chủ quyền ở
quần đảo Trường Sa – một vấn đề mà các quốc gia đang hướng tới, song gặp nhiều
khó khăn, bế tắc.
Nhà nghiên cứu Leni
Stenseth trong công trình chuyên khảo “Nationalism and Foreign Policy – The Case of
China’s Nansha Rhetoric”[21] (University of Oslo, 1998), với mục đích đánh giá tác động
của chủ nghĩa dân tộc đối với chính sách của Trung Quốc trên biển Đông, trong
đó có vấn đề tranh chấp với Việt Nam, đặt câu hỏi: “Chủ nghĩa dân tộc có hay
không và bằng cách nào ảnh hưởng đến quá trình hình thành chính sách đối ngoại
của Trung Quốc và chính sách biển Đông, đặc biệt là trong các tranh chấp với
Việt Nam?”. Phân tích và luận giải lập trường, phương thức đề nghị đàm phán của
Trung Quốc trên biển Đông trong các tranh chấp …, Leni Stenseth kết luận: "Chỉ có chủ nghĩa dân tộc hiếu chiến
mới có thể ảnh hưởng đến đầu ra của chính sách đối ngoại của Trung Quốc"[22].
Leni Stenseth cũng chỉ ra rằng, “vai
trò của luật quốc tế trong giải quyết tranh chấp có vẻ còn hạn chế”[23],
lưu ý cộng đồng quốc tế cần có những biện pháp tích cực giảm thiểu căng thẳng
trên biển Đông, tránh để những xung đột, mâu thuẫn trở thành đối kháng.
“Các
tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam và sự ổn định khu vực"
(bản dịch, lưu tại Thư viện Ban Biên giới Chính phủ, 1991) là công trình của tác giả Ramses Amer[24]
- một khảo cứu công phu các tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc - Việt Nam và
ảnh hưởng, tác động của tranh chấp đến sự ổn định khu vực. Ramses Amer đã tuần tự nghiên cứu theo mạch thời gian các
tranh chấp lãnh thổ trong mối quan hệ Trung - Việt trước và sau bình thường hóa
(1991), tập trung sự quan tâm vào những tiến triển trong đàm phán giải quyết
tranh chấp từ sau bình thường hóa đến năm 1997. Trong "Lời bình kết luận" tác giả khẳng
định rằng, Trung Quốc luôn theo đuổi "chính sách hai mặt", cảnh báo:
"Chính sách hai mặt này không giúp gì cho việc thiết lập một môi trường an
ninh, ổn định ở khu vực. Bước quyết định cho việc mang lại một môi trường ổn
định hơn có lẽ là Trung Quốc phải kiềm chế không có những hành động gây nên
căng thẳng trong các quan hệ song phương, như quan hệ với Việt Nam chẳng hạn,
hoặc trong quan hệ đa phương"[25].
Bên cạnh các nghiên cứu về quan hệ chính trị - ngoại giao
Việt - Trung như đã trình bày ở trên, các công trình
nghiên cứu về quan hệ kinh tế - thương mại, văn hóa, giáo dục, du lịch… giữa
hai nước có số lượng khá lớn, tiêu biểu là các công trình: "Quan hệ kinh tế
- văn hóa Việt Nam - Trung Quốc, hiện trạng và triển vọng" (Trung tâm nghiên cứu Trung
Quốc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2001); "Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc: Nhìn lại 10
năm và triển vọng" (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002); "Tình hình đầu
tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam" (Vũ Phương, Tạp chí Nghiên
cứu Trung Quốc, số 2 (30)/2000); "Ảnh
hưởng của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Trung Quốc" (Đỗ Tiến Sâm, Tạp chí Nghiên cứu
Trung Quốc, số 5 (39)/2001)…. Điểm nổi bật của các công trình trên là đã tổng kết những
thành tựu chính trong quan hệ kinh tế, văn hóa, du lịch, giáo dục và khoa học
-kĩ thuật giữa hai nước sau bình thường hóa vào năm 1991. Phân tích quan hệ
kinh tế - thương mại Việt – Trung, các tác giả đều cho rằng, kết quả cơ bản
nhất trong lĩnh vực này từ sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ là đã tích
cực ký kết các hiệp định hợp tác về kinh tế hoặc có
liên quan đến kinh tế và khá nhiều thỏa thuận cấp Nhà nước, tạo nền tảng pháp lý cho việc hợp tác. Các tác
giả cùng có chung quan điểm rằng, dấu ấn nổi bật trong quan hệ
thương mại giữa hai nước thể hiện ở sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang thị trường Trung Quốc với xu hướng khá bền vững. Cùng với phát triển
quan hệ kinh tế - thương mại, hợp tác văn
hóa – giáo dục, khoa học – công nghệ và du lịch Việt – Trung cũng phát triển
mạnh mẽ.
Trong các công trình nghiên cứu về
quan hệ văn hóa – giáo dục, khoa học – công nghệ và du lịch Việt – Trung, một
số nhà khoa học đã chỉ ra những bất cập, hạn
chế, thua thiệt trong hợp tác giữa hai nước:
Nạn buôn lậu, nhập siêu, vấn đề thanh toán, tác
động tiêu cực từ hoạt động đầu tư trực tiếp của Trung Quốc, những tác động mà
hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam phải đối mặt trước sự cạnh tranh mạnh mẽ
của các đối tác Trung Quốc… Trên cơ sở phân tích các thách thức, khó khăn, nhìn
nhận những rào cản trong hợp tác giữa hai nước, các nhà nghiên cứu có cái nhìn
khách quan, biện chứng, cho rằng, phạm vi hợp tác
giữa hai nước trong những lĩnh vực này là
hết sức rộng lớn, đặc biệt là hợp tác kinh tế - thương mại, bởi xu thế phát
triển kinh tế trong khu vực và trên thế giới, cũng như tính bổ trợ trong kinh
tế địa dư đòi hỏi phải coi phát triển
quan hệ kinh tế với Trung Quốc là một yêu cầu cần thiết. Ngay cả khi Việt Nam
không ngừng phát triển quan hệ kinh tế với các nước phương Tây, thì cũng không
thay đổi ưu thế và tiềm năng ưu đãi lẫn nhau cùng có lợi giữa hai nước Việt -
Trung. Do vậy, cần tiếp tục ưu tiên phát
triển kinh tế - thương mại với Trung Quốc thông qua việc cố gắng khắc phục
thách thức, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
Có một nhóm công trình tuy
không phải là những nghiên cứu chuyên sâu, song là tư liệu tra cứu tốt cho những người
nghiên cứu về quan hệ Việt – Trung – nhóm các công trình mang tính chất biên niên: "Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, những sự kiện
1991-2000" (Trần Văn Độ chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002);
"Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc:
Những sự kiện 1945-1960" (Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003); "Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc: Những sự kiện
1961-1970" (Nguyễn Đình Liêm chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội, 2006)… Những công trình này đã tập hợp theo thứ tự thời
gian các sự kiện đã diễn trong quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc, cung
cấp chi tiết thông tin về những cuộc gặp gỡ
giữa các phái đoàn, đại diện các cấp hai nước, không đi vào bình luận và đánh
giá các sự kiện, song qua sự tập hợp công phu, đầy đủ những sự kiện diễn ra
trong quan hệ hai nước, người đọc bước đầu có được những hình dung cơ bản, chân
thực về quan hệ Việt – Trung.
Thu thập, phân tích nguồn
tư liệu liên quan đến quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ năm 1975 đến năm 2001,
có thể thấy rằng, các nhà khoa học đi trước đã có những nghiên cứu nghiêm túc, khách
quan, chân thực về nhiều lĩnh vực khác nhau của quan hệ Việt – Trung, trình bày, lý giải những vấn đề thuộc về, hoặc liên quan đến quan
hệ Việt - Trung qua những giai đoạn, những
thời kỳ khác nhau với cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Qua các công trình
nghiên cứu, bức tranh quan hệ Việt - Trung được tái hiện tương đối đầy đủ, sinh
động, tuy nhiên, vẫn còn có một số vấn đề được phản ánh hoặc chưa rõ
ràng, hoặc trái ngược sự thật lịch sử, một số nhận định, đánh giá chưa chính xác, thiếu khách quan. Tình
trạng này do nhiều nguyên nhân: Quan điểm nghiên cứu, cách thức tiếp cận, khả
năng tiếp cận tư liệu và xử lý tư liệu… còn bị hạn chế; tính đa diện, phức tạp
của mối quan hệ, sự vận động, biến đối của bối cảnh lịch sử, của các nhân tố
khách quan, chủ quan xung quanh, hoặc trên đó mối quan hệ diễn ra là khá phức
tạp… Những nguyên do đó khiến việc nhận chân nhiều vấn đề trong quan hệ Việt -
Trung gặp phải những khó khăn, thách thức to lớn.
Cùng với việc các tài liệu lưu
trữ liên quan, hoặc trực tiếp về quan hệ Việt - Trung từ nhiều nguồn khác nhau
được phép khác thác, công bố; cơ hội tiếp cận với những công trình chất lượng
của các nhà nghiên cứu về quan hệ Việt - Trung trong nước và trên thế giới được
mở rộng; nhờ đó, các nhà khoa học có thêm những cơ sở trả lời cho những câu hỏi
còn tồn tại trong quan hệ Việt – Trung. Chắc chắn, cùng với thời gian, số lượng
công trình nghiên cứu về quan hệ Việt –Trung từ năm 1975 đến nay sẽ tiếp tục
được nhân lên nhanh chóng; qua đó, những nội dung, những vấn đề trong quan hệ
hai nước sẽ tiếp tục được khai lộ, được
làm sâu thêm.
Download toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC
[1] Nguyễn Thành Lê, Việt Nam một tiêu điểm của chiến tranh
tư tưởng phản cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983, tr. 55.
[2] Chen Jian: China
and the First Indo-China War, 1950-54, The China
Quarterly, No. 133 (Mar, 1993), P.110.
[3] Vụ thông
tin và báo chí Bộ Ngoại giao (1979), Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Hà Nội, tr.57.
[4] Vụ thông
tin và báo chí Bộ Ngoại giao (1979), Chủ
quyền của Việt Nam …Tlđd, tr.57.
[5] Viện Chiến
lược và khoa học công an (2004), Quan hệ
Trung - Việt sau khi Việt Nam đưa quân vào
Campuchia, Chuyên
đề về Trung Quốc, Hà Nội, tr.31.
[6] Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và mối quan
hệ Việt-Trung, Nxb Đà Nẵng, 1996, tr. 9.
[7] Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và mối quan
hệ Việt-Trung, Nxb Đà Nẵng, Sđd, tr.9.
[8] Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và mối quan
hệ Việt-Trung, Nxb Đà Nẵng, Sđd, tr.161.
[10] Hồ Tài, "Quan hệ Trung -Việt sau bình
thường hóa, nhìn lại thời gian qua và triển vọng", Tạp chí Vấn đề quốc tế,
TLđd, tr. 3.
[11] Francois
Joyaux, Trung Quốc và việc
giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Geneva 1954, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội,
1981, tr. 85.
[12] Francois
Joyaux, Trung Quốc và việc
giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Geneva 1954, Nxb Thông tin lý luận, Sđd, tr.
88.
[13] Francois
Joyaux, Trung Quốc và việc
giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Geneva 1954, Nxb Thông tin lý luận, Sđd, tr.
124-125.
[14] L.A Patti, Tại sao Việt Nam? Nxb Đà Nẵng, 1996, tr.
438.
[15] L.A Patti, Tại sao Việt Nam? Nxb Đà Nẵng, Sđd, tr.
438.
[16]Archimedes Patti: Tại sao Việt Nam? Nxb. Đà Nẵng, 1995,
tr. 397.
[17]Monique Chemillier
Gendereaur, Chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.150.
[18] Monique
Chemillier Gendereaur, Chủ quyền trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb Chính trị quốc gia, Sđd, tr.152.
[19] Valencia.M.J,
Vandyke.J.M, Ludwig.N.A, Chia sẻ tài
nguyên ở biển Nam Trung Hoa", Bản dịch, Lưu tại Thư viện Khoa học Xã
hội, tr. 66.
[20] Valencia.M.J,
Vandyke.J.M, Ludwig.N.A, Chia sẻ tài
nguyên ở biển Nam Trung Hoa", Bản dịch, TLđd, tr. 66.
[21] Tiếng Việt là: “Chủ nghĩa dân tộc và chính sách đối ngoại-
Qua trường hợp tranh chấp Nam Sa của Trung Quốc”.
[22]Leni
Stenseth, Nationalism
and Foreign Policy – The Case of China’s Nansha Rhetoric,
University of Oslo, 1998, tr.145.
[23] Stenseth, Nationalism
and Foreign Policy – The Case of China’s Nansha Rhetoric, University of Oslo, Sđd, tr. 10.
[24] Giáo sư Khoa Chính trị học, Đại học Umea, Thụy Điển
[25] Ramses
Amer, Các tranh chấp lãnh thổ giữa Trung
Quốc và Việt Nam và sự ổn định khu vực, Bản dịch, lưu tại Thư viện Ban Biên
giới chính phủ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!