Thứ Năm, 15 tháng 8, 2013

NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT


MỞ ĐẦU
Con người và năng lực con người luôn được thừa nhận là yếu tố quyết định nhất trong các nguồn lực. Vấn đề này đã và đang chiếm vị trí trọng tâm trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia. Một đất nước sẽ thực sự đạt được tốc độ tăng trưởng cao khi đất nước đó biết phát huy nguồn lực con người.
Đối với Việt Nam, khi diện tích đất canh tác trên đầu người hẹp nhất thế giới, tài nguyên khoáng sản tuy đa dạng nhưng trữ lượng không lớn, cơ sở vật chất lạc hậu thì càng cần phải đặt vấn đề con người lên hàng đầu, vì phát triển yếu tố con người trong lực lượng sản xuất là cách phát triển kinh tế một cách hiệu quả.
Con người lao động Việt Nam còn rất nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại. Thói quen làm ăn manh mún do nền sản xuất nông nghiệp để lại ảnh hưởng không tốt đến tư duy lao động của con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Trong qúa trình xây dựng CNXH, vấn đề con người đã được quan tâm phần nào, nhưng chủ yếu là trên chính sách, giấy tờ, nghị quyết. Trong thực tế, đầu tư còn ít cho phát triển con người và còn chưa được coi là đầu tư cho phát triển sản xuất. Ngày nay, khi một đặc điểm nổi bật của lao động là lao động có hàm lượng trí tuệ cao được đặt lên vị trí quan trọng, thì Việt Nam còn nhiều yếu kém, bất cập trong đào tạo người lao động. Người lao động chưa được phát triển đúng mức là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sản xuất trì trệ, sản phẩm kém chất lượng không cạnh tranh được, dẫn đến đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn.

Trong tình hình đó, vấn đề con người cần được chú trọng hơn, đặc biệt trong điều kiện phát triển kinh tế thế giới và CMKHKT, thì vấn đề con người cần được quan tâm hơn bao giờ hết và yếu tố con người mang tính thời sự, cấp bách.
Đề tài con người luôn luôn được đề cập đến trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Đây là một đề tài cũ nhưng nội dung luôn mới.
Trên thế giới, vấn đề con người trong nhiều thập kỷ qua được quan tâm rộng rãi. Nhiều công trình khoa học đã được công bố xoay quanh những khía cạnh, những đặc trưng tồn tại của con người như một thực thể thống nhất của "Sinh vật - xã hội - tinh thần". Đặc biệt là Liên bang Nga, sau khi chế độ XHCN bị thay thế, nghiên cứu vai trò của con người trong xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển đổi, khủng hoảng được chú trọng, nhấn mạnh.
Ở Việt Nam, vấn đề con người đã được đề cập tới từ rất sớm, nhất là trong thời kỳ xây dựng con người mới XHCN. Vào những năm 90 (XX), đã có nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến con người với những nội dung như: Nguồn nhân lực trong thời đại công nghiệp hóa - hiện đại hóa; giải quyết việc làm cho người lao động; chiến lược phát triển con người; động lực kích thích tích cực của con người…Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khía cạnh chưa được đề cập, ví dụ như:  Vấn đề phát triển con người Việt Nam trong xu thế lao động với hàm lượng trí tuệ ngày càng cao; con người với tính chất quốc tế hoá của lực lượng sản xuất trong thời kỳ hiện đại; con người trong điều kiện CMKHKT….Vì vậy, chuyên luận nghiên cứu, phân tích, làm sáng tỏ vấn đề con người và nguồn lực con người trong lực lượng sản xuất, từ đó tìm ra phương hướng phát huy yếu tố con người.
Lao động sản xuất là một hoạt động đặc trưng riêng của con người. Đây là hoạt động cơ bản nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Lịch sử loài người là lịch sử phát triển sản xuất. Để chiếm lĩnh tự nhiên, con người không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan mà phải dùng sức mạnh vật chất. Lực lượng sản xuất là lực lượng do xã hội tạo ra để chinh phục thiên nhiên, phục vụ con người. Nó biểu hiện mối quan hệ của con người với tự nhiên, nhưng không phải tất cả các mối quan hệ với tự nhiên của con người đều là lực lượng sản xuất, mà chỉ có quan hệ với tự nhiên mà trong đó con người tạo ra của cải vật chất, mới là biểu hiện của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất chính là kết quả năng lực thực tiễn của con người. Con người tham gia vào lực lượng sản xuất bằng cả năng lực, trí tuệ, sức mạnh thể lực, kết hợp với công cụ lao động và phương tiện lao động để tác động vào đối tượng lao động, tạo ra sản phẩm hàng hoá. Như vậy, lực lượng sản xuất chính là một chỉnh thể thống nhất giữa hai yếu tố con người và yếu tố vật thể của quá trình sản xuất. Trong quá trình phát triển của lịch sử, trong hoạt động thực tiễn của con người, lực lượng sản xuất luôn có sự kế thừa, phát triển không ngừng và luôn gắn liền với quan hệ sản xuất (quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm)
Tóm lại, đặc trưng của lực lượng sản xuất là biểu hiện quan hệ con người với thế giới tự nhiên, do xã hội tạo ra. Nó biểu hiện năng lực chinh phục tự nhiên của con người, là một thể thống nhất gồm yếu tố người và yếu tố vật thể của sản xuất; trong đó, con người là chủ thể tích cực, biết tạo ra, sử dụng các phương tiện, công cụ sản xuất tác động vào đối tượng lao động, làm ra vật phẩm cần thiết cho xã hội. Đây chính là nội dung quan trọng nhất của lực lượng sản xuất.Trong tiến trình phát triển, lực lượng sản xuất luôn kế thừa, phát triển liên tục, quyết định sự tồn tại và tiến bộ của xã hội.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về lực lượng sản xuất. Trong sự thống nhất giữa hữu cơ giữa con người và yếu tố sự vật có thể hiểu rằng: trong lực lượng sản xuất, yếu tố con người là quan trọng nhất, vì con người là chủ thể tích cực, sáng tạo với trí tuệ là chủ đạo. Con người biết vận dụng tri thức khoa học, kỹ thuật, chuyên môn, kinh nghiệm, kỹ năng, thói quen... để chế tạo, cải biến, sử dụng các tư liệu lao động (trong đó có công cụ lao động là cái năng động nhất) để tác động vào đối tượng tự nhiên, sản xuất ra những sản phẩm vật chất thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Vì vậy, vị trí đặc biệt của yếu tố con người trong lực lượng sản xuất là không thể phủ nhận.
Con người tham gia vào lực lượng sản xuất, tác động vào giới tự nhiên, biến đổi chúng, phục vụ cho mục đích của mình. Nhờ lao động, con người mới có ngôn ngữ và phát triển tư duy. Nhờ tư duy, lao động phát triển theo, vì con người tham gia vào lực lượng sản xuất không chỉ có cơ bắp mà cả trí tuệ và toàn bộ hoạt động tâm lý của mình. Lao động sản xuất là hoạt động có mục đích của con người. Nhờ có tư duy và hoạt động thực tiễn, con người ngày càng nhận thức sâu sắc bản chất sự vật, hiện tượng của thiên nhiên, sử dụng chúng làm phương tiện sản xuất. Con người không ngừng tạo ra cho mình những bộ phận của lực lượng sản xuất ngày càng lớn mạnh hơn.
Con người biết chế tạo và sử dụng phương tiện, công cụ lao động vào quá trình sản xuất. Lao động của con người là hoạt động có ý thức, có mục đích. Đây là những tiêu chuẩn quan trọng để phân biệt con người với những hoạt động bản năng của loài vật. Con người hoạt động không chỉ thoả mãn nhu cầu bản năng sinh vật mà cả nhu cầu tinh thần, xã hội. Con người không bằng lòng với những gi tự nhiên ban phát, mà tạo ra những thứ không có trong tự nhiên. Lênin đã viết: "Thế giới không thoả mãn con người, con người quyết định cải tạo thế giới". Con người không chỉ thuần túy làm biến đổi giới tự nhiên, mà còn cải tạo giới tự nhiên. Đây là hoạt động thích nghi chủ động và tích cực nhất.
Con người luôn luôn sáng tạo, phát minh, làm tiến bộ hơn công cụ lao động, để công cụ lao động có thể thay thế nhiều hoạt động động cơ bắp của con người, nhằm giảm nhẹ lao động, nâng cao hiệu quả và năng suất lao động.
Từ những phân tích đó, có thể thấy thấy con người là chủ thể sáng tạo và sử dụng mọi bộ phận của lực lượng sản xuất, trong đó con người là yếu tố năng động nhất, quyết định nhất. Bởi vì, chỉ có con người mới có yếu tố trí tuệ, năng lực để tự phát triển và hoàn thiện mình với tư cách là một bộ phận của lực lượng sản xuất. Con người làm ra lực lượng sản xuất đến đâu, thì cũng tự nâng cao năng lực sản xuất của mình đến đó.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã làm tư duy, trí tuệ con người phát triển mạnh mẽ, thay đổi tính chất lao động về cơ bản. Đó là chuyển từ loại hình sản xuất dùng nhiều cơ bắp sang dùng nhiều trí tuệ. Điều này càng chứng tỏ con người là yếu tố quyết định nhất trong lực lượng sản xuất, vì khác với các yếu tố khác, con người có trí tuệ. Khi kinh tế khoa học và khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, thì cơ cấu con người trong lao động xã hội cũng thay đổi. Đội ngũ lao động trí thức tăng lên nhanh chóng, lao động trong nông nghiệp giảm, sau đó là trong công nghiệp giảm. Lao động trong các ngành dịch vụ (chủ yếu là dịch vụ khoa học kỹ thuật, công nghệ) tăng lên. Điều đó làm nảy sinh đòi hỏi bức xúc đối với đội ngũ lao động là ngày càng phải có trình độ khoa học, chuyên môn, nghiệp vụ cao. Các loại hình lao động trí tuệ tăng nhanh và chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng sản xuất của xã hội hiện đại. Trí tuệ con người được đề cao. Trí tuệ luôn gắn liền với con người lao động. Đề cao trí tuệ chính là cách gián tiếp đề cao con người.
Trí tuệ là thuộc tính quan trọng nhất của con người trong hoạt động thực tiễn. Sự phát triển chất lượng người lao động thể hiện sự hài hòa giữa thể lực và trí tuệ, trong đó trí tuệ giữ vai trò chủ đạo vì nó điều khiển hoạt động của cơ thể. Hoạt động tác động vào cải tạo thế giới là cơ sở cho sự xuất hiện, hoàn thiện trí tuệ con người. Nhờ có lao động, con người không ngừng làm giầu cho trí tuệ bằng tri thức mới và luôn vận động tri thức. Với ý nghĩa đó, trí tuệ không bao giờ bị cạn kiệt khi con người còn tồn tại và hoạt động sản xuất.
Hiện tại, những nước lạc hậu đi sau không thể phát triển nhanh chóng nếu không tiếp thu những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghiệp hiện đại của những nước đang phát triển. ở đây, yếu tố con người lại là điều quyết định, vì chính con người tiếp thu và sử dụng nó. Do vậy, một chiến lược kinh tế - xã hội khôn ngoan là biết đề ra những biện pháp có hiệu quả để phát huy nguồn lực con người. Con người luôn là đối tượng khó nhận thức nhất, nhưng không phải là không nhận thức được. Vấn đề con người luôn được đề cập đến từ thời cổ đại. Nó là vấn đề không mới, nhưng nội dung luôn luôn mới, bởi những hiểu biết về con người được quy định bởi sự đa dạng, cách tân không ngừng trong hoạt động của mình; vì thế, đòi hỏi phải thường xuyên nhận thức lại về yếu tố con người trong sản xuất.
Ngày nay, nhiều quốc gia đặt vấn đề con người là trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Điều này càng khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của yếu tố con người trong sự phồn thịnh của xã hội.
II. "NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ", "NGUỒN NHÂN LỰC" TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
Sự tồn tại và phát triển của một quốc gia dựa vào tổng thể các nguồn lực. "Nguồn lực" hiểu theo nghĩa chung nhất là tổng hợp toàn bộ yếu tố, quá trình (vật chất, tinh thần) đã, đang và sẽ tạo ra năng lực, sức mạnh thúc đẩy quá trình đi lên của nền kinh tế của một đất nước. Như vậy khái niệm "nguồn lực" bao hàm trong mình không chỉ năng lực, sức mạnh đã qua, hiện có, mà còn cả những năng lực, sức mạnh dưới dạng tiềm năng. Đồng thời, nó không chỉ gồm những yếu tố khởi nguyên, nguồn nuôi dưỡng năng lực, mà còn bao gồm cả số lượng và chất lượng ngày càng tăng lên của chúng. Dưới dạng tổng quát, có thể kể ra một số nguồn lực như: tài nguyên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực.... Trong đó, nguồn nhân lực con người (nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên người) được coi như nguồn sức mạnh, động lực cho sự phát triển, tiến bộ xã hội. Đây là nguồn lực lâu bền nhất so với các nguồn lực khác trong sự vận động, phát triển của xã hội.
Nguồn nhân lực con người được xem xét như một nguồn sức mạnh, là sự kết hợp hữu cơ giữa thể lực, trí tuệ, đem lại cho con người năng lực sáng tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới, phục vụ nhu cầu con người.
Nói đến "nguồn nhân lực" tức là nói đến con người - chủ thể tham gia vào lực lượng sản xuất. ở đây, cần lưu ý hai phương diện quan trọng của khái niệm này:
 Thứ nhất, với tư cách là nguồn lực những con người - chủ thể không tồn tại cách biệt, mà chúng liên kết chặt chẽ với nhau thành một chỉnh thể thống nhất về tổ chức, tư tưởng, hành động. Nói cách khác, nguồn nhân lực là tổng hợp năng lực, sức mạnh của chỉnh thể. Năng lực sức mạnh này bắt nguồn trước hết từ phẩm chất vốn có bên trong của mỗi con người, nó được nhân lên bởi "chỉnh thể" thống nhất trong hành động.
Thứ hai, nguồn nhân lực bao gồm không chỉ những con người - chủ thể đã và đang tham gia vào lực lượng sản xuất mà cả con người - chủ thể sẽ tham gia vào. Bởi vì lịch sử tự nhiên của đời sống xã hội là quá trình phát triển kế tiếp nhau của các nền văn minh và các trình độ văn minh. Trong đó, các giá trị do các thế hệ trước tạo ra là nền tảng để thế hệ sau kế thừa phát triển.
Như vậy, trong các nguồn nhân lực, nguồn nhân lực con người đứng ở vị trí trung tâm và giữ vai trò quyết định không chỉ đối với các nguồn lực khác, mà còn quyết định toàn bộ tiến trình phát triển của nền kinh tế đất nước. Bởi lẽ, các nguồn nhân lực khác có giới hạn nhất định, khai thác chúng đến một mực nào đó sẽ cạn kiệt. Chỉ có nguồn nhân lực với trí tuệ, chất xám là có khả năng tự tái sinh đến vô hạn. Thứ nữa, tự mình các nguồn nhân lực không thể trở thành động lực phát triển, muốn trở thành động lực chúng phải nhờ sức lực, trí tuệ của con người.
Nói gọn lại: khái niệm "nguồn lực con người" không mâu thuẫn mà thống nhất với khái niệm "yếu tố con người" trong lực lượng sản xuất. Sự khác nhau chỉ ở phạm vi xem xét vấn đề mà thôi.
Khái niệm "nguồn nhân lực" xem xét yếu tố con người rộng hơn, trong toàn bộ các hoạt động và quá trình phát triển xã hội của con người.
Còn "yếu tố con người" chỉ xem xét con người trong một loại hình hoạt động lao động sản xuất. Tuy vậy, hoạt động sản xuất cũng là hoạt động xã hội, mà con người muốn tiến hành một cách hiệu quả quá trình sản xuất, phải liên kết với nhau thành xã hội. Do vậy, "nguồn nhân lực" và "yếu tố con người" có liên quan chặt chẽ với nhau.
2.2. Đặc điểm nguồn lực con người ở Việt Nam
Xem xét những giai đoạn cụ thể trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, điều dễ nhận thấy là những người lao động Việt Nam có nhiều ưu thế đi kèm với những hạn chế không nhỏ.
Không thể phủ nhận rằng, con người Việt Nam được thừa hưởng những truyền thống tốt đẹp được hun đúc qua một quá trình lâu dài, thể hiện ở chỗ:
 1. Hình thành truyền thống cộng đồng gắn liền với kết cấu làng xã. Mặt tích cực của chúng thể hiện ở tinh thần tương trợ "lá lành đùm lá rách". Điều này cũng thể hiện rõ trong quan hệ gắn bó giữa cá nhân với gia đình và dòng họ.
 2. Nền sản xuất nông nghiệp với những khó khăn, gian khổ đã tạo nên thói quen cần cù, chịu khó.
3.  Quá trình chống giặc ngoại xâm nhiều thế kỷ đã tạo nên chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc của nhiều thế hệ người Việt Nam.
Như vậy, lịch sử tồn tại và phát triển hàng ngàn năm của dân tộc đã hình thành nhiều truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam. Nhưng cũng chính lịch sử ấy với nền kinh tế tiểu nông, chế độ ruộng công, sản xuất nhỏ, trì trệ, tự cấp, tự túc, khép kín, tính cố kết cộng đồng của công xã nông thôn và sự tồn tại dai dẳng của nó, cũng đã tạo nên con người lao động Việt Nam với những mặt tiêu cực, hạn chế như:
1. Tập quán xấu của người sản xuất nhỏ, làm ăn cò con, manh mún, tác phong tuỳ tiện, gặp chăng hay chớ, theo lệ nhiều hơn theo luật ("phép vua thua lệ làng").
2. Tập quán bảo thủ, cố hữu, thiếu tinh thần phê bình và tự phê bình.
3.  Chủ nghĩa bình quân ("xấu đều hơn tốt lỏi"), không muốn ai hơn mình, giữ bí quyết gia truyền, nhiều khi dẫn đến những kinh nghiệm, nghề  quý báu thất truyền.
4. Thiếu ý thức trách nhiệm, lãng phí (đặc biệt trong những dịp tết, lễ).
5. Thiếu óc phân tích, thiếu tầm nhìn xa, chưa biết làm ăn lớn, làm  ăn  lâu bền, làm ăn còn mang tính chụp giật.
6. Đố kỵ, khó hợp tác.
Hơn nữa, cơ chế quan liêu, bao cấp và quản lý kinh tế theo kiểu hành chính - mệnh lệnh đã hạn chế sự phát triển con người Việt Nam. Thời kỳ này còn chưa tập trung đúng mức cho phát triển lực lượng sản xuất, mà chỉ chú trọng cải tạo quan hệ sản xuất. Hoạt động làm giàu bị kỳ thị. Đặc tính cạnh tranh trong hoạt động kinh tế bị coi là biểu hiện của chủ nghĩa tư bản. Cơ chế này đã hạn chế tinh thần tự do sáng tạo, nỗ lực vươn lên của người lao động, tạo thói ỷ lại, thiếu chủ động trong sản xuất, cá nhân ỷ vào tập thể, dưới ỷ vào trên, địa phương ỷ vào Trung ương...
Bệnh giáo điều trong cách tư duy đã đối lập rạch ròi chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, ngăn cản việc học tập kinh nghiệm tiên tiến làm tăng tính bảo thủ của người lao động. Thời kỳ bao cấp đề cao vai trò tập thể, không chú ý đến vai trò, lợi ích cá nhân, nên hiệu lực công việc của người lao động giảm sút rõ rệt. Một khi cá nhân không được quan  tâm đúng mức, năng lực của cá nhân sẽ không được phát huy.
Con người Việt Nam còn nhiều hạn chế về mặt thể lực. Tình trạng thiếu dinh dưỡng còn phổ biến, nhất là ở nông thôn. Mức dinh dưỡng trung bình của người Việt Nam nằm dưới mức của thế giới (người Việt Nam chỉ có 1500calo/ngày, trong khi trên thế giới là 2000calo/ ngày (theo thống kê của Liên Hiệp Quốc).
Việt Nam hiếu một đội ngũ chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, thiếu đội ngũ công nhân lành nghề. Hạn chế về học vấn, chuyên môn - Đó chính là hạn chế lớn nhất, trở ngại lớn nhất của con người lao động Việt Nam.
Rõ ràng là sức ì, thói xấu, tập quán lạc hậu... đang là vật cản trong xây dựng, phát triển con người Việt Nam. Lênin đã nói "Những tập quán, thói xấu của con người là sức mạnh đáng sợ nhất". Trong cơ cấu của nền kinh tế hiện đại, khi nguồn lực con người được đặt lên vị trí số một, thì việc cải tạo, đào tạo con người để có một đội ngũ lao động đồng bộ, chất lượng cao là một yêu cầu cấp bách.
Để có một nguồn nhân lực đáp ứng được những đòi hỏi của thời kỳ sản xuất hiện đại, cần có những biện pháp thích hợp để phát triển nó phong phú, hài hòa cả về thể lực, trí lực.
Vấn đề chiến lược ở đây là cần quan tâm đúng mức tới nhu cầu lợi ích của người lao động, để kích thích tính tích cực của họ trong quá trình sản xuất. Đây là chìa khóa để khắc phục những hạn chế đang tồn tại trong thực trạng nguôn nhân lực Việt Nam. Phát huy tính tích cực của người lao động được thực hiện bằng cách tác động vào điều kiện làm nảy sinh những động lực thôi thúc cá nhân, cộng đồng tích cực vươn lên. Cụ thể, con người hoạt động sản xuất là nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Khi nhu cầu nào đó được thỏa mãn, thì động lực sẽ tự mất đi. Nhưng con người vẫn tiếp tục tác động, cải tạo hoàn cảnh, hoàn cảnh lại tác động ngược trở lại con người, làm xuất hiện nhu cầu mới. Một khi sản xuất càng phát triển, nhu cầu càng đa dạng. Do vậy, điều cốt yếu là phải tạo được điều kiện cho nhu cầu phát triển lành mạnh, phong phú.
Việc thực hiện nhu cầu sẽ nảy sinh vấn đề lợi ích. Lợi ích là biểu hiện của mối quan hệ xã hội nhất định, là phương tiện thỏa mãn nhu cầu của con người trong những điều kiện cụ thể. Như vậy, nhu cầu - lợi ích có mối quan hệ biện chứng và mật thiết. Một khi con người nhận thức được lợi ích thì mới tích cực vươn lên.
Con người có nhiều nhu cầu và nhiều mối quan hệ xã hội, dẫn đến có nhiều loại lợi ích khác nhau: lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa, tinh thần... Cho nên, khi tác động đến lợi ích để thỏa mãn nhu cầu, cần phải tác động một cách thống nhất và toàn diện giữa lợi ích cá nhân - tập thể; trước mắt - lâu dài; kinh tế - chính trị... ;trong đó, , lợi ích kinh tế và lợi ích cá nhân phải được ưu tiên nhất.
Điều kiện cơ bản để lợi ích được thực hiện đó là phải có một nền sản xuất phát triển. Sản xuất quyết định lợi ích, giải quyết tốt lợi ích sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của sản xuất. Xét cho cùng lợi ích là khâu quan trọng nhất, quyết định đến tính tích cực của nguồn nhân lực, mà dựa trên đó nền kinh tế hưng thịnh hay trì trệ. Đây chính là hướng đi chiến lược trong việc phát huy nguồn lực con người.
Để thực hiện hướng đi chiến lược đã nêu ở trên, cần lưu ý thực hiện một số giải pháp cụ thể:
3.2.1. Xây dựng một cơ chế xã hội đảm bảo được nhu cầu và lợi ích của con người
Con người là chủ thể cải tạo xã hội, thúc đẩy sự đi lên của xã hội. Đồng thời nó cũng là sản phẩm của sự vận động xã hội, bị quyết định bởi chế độ xã hội. Muốn giải phóng con người, trước hết phải giải phóng con người khỏi cơ chế xã hội kìm hãm tính tích cực, chủ động sáng tạo của con người. Cơ chế xã hội được coi là phù hợp khi nó đảm bảo được sự giải phóng con người về mọi mặt, kết hợp hài hoà mọi lợi ích, đặc biệt chú trọng lợi ích kinh tế, cá nhân. Phải cải tạo quan hệ sản xuất, điều chỉnh cho nó phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Cơ chế xã hội hợp lý phải tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển và có cơ chế quản lý mềm dẻo. Kinh tế thị trường đòi hỏi mọi cái đều trở thành hàng hóa (cả tư liệu sản xuất, trí tuệ, sức lao động). Kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh cao, một điều không thể thiếu được để kích thích người lao động, thôi thúc họ vươn lên, sáng tạo. Đổi mới cơ chế quản lý chính là giải quyết một cách thoả đáng, hợp lý vấn đề sở hữu, tổ chức quản lý sản xuất, phân phối sản phẩm. Trong đó việc sở hữu được đặt ra lên hàng đầu. Nếu giải quyết tốt, tự nó sẽ điều chỉnh những vấn đề còn lại.
3.2.2. Xây dựng một môi trường xã hội lành mạnh
Môi trường xã hội lành mạnh sẽ đảm bảo cho con người tự do lao động sáng tạo, phát triển toàn diện, phát huy được khả năng cá nhân. Một môi trường như thế chỉ có thể có được dựa trên sự đổi mới hệ thống chính trị, tăng cường pháp luật... có nghĩa là xây dựng, phát triển một nền dân chủ thực sự. Dân chủ không chỉ là thể chế chính trị mà còn là một hình thức tổ chức nhà nước, phương thức tổ chức sản xuất và thành quả của nền văn minh. Dân chủ được biểu hiện tập trung nhất ở hình thái của nhà nước. Hoạt động của nhà nước có tính chất quyết định đối với chế độ dân chủ, kiềm hãm hay kích thích sự phát triển của con người.
Vai trò của nhà nước trong chế độ dân chủ được thể hiện qua hệ thống chính sách và được thể chế hoá thành pháp luật. Nó tác động theo hai hướng kích thích hoặc ràng buộc; do vậy, hai hướng này cần được kết hợp hài hoà.
Việc dân chủ hoá nền kinh tế là một bước đi không thể thiếu được trong việc xây dựng một xã hội dân chủ. Dân chủ hoá nền kinh tế đòi hỏi nhà nước giảm độc quyền trong quản lý sản xuất. Nhà nước chỉ nên nắm nền kinh tế mũi nhọn, then chốt, còn lại tạo điều kiện tự chủ tối đa cho các ngành cơ sở. Lịch sử đã đã chứng minh rằng, khi nhà nước can thiệp quá sâu và trực tiếp vào hoạt động kinh tế, sẽ giảm quyền tự chủ và tính năng động của cơ sở, giảm sự sáng tạo của người lao động. Nhà nước chỉ nên quản lý trên bình diện vĩ mô, có tính định hướng mà thôi.
Nhà nước muốn hoạt động hữu hiệu, đảm bảo cho xã hội công bằng văn minh, dân chủ, phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh như một công cụ mạnh mẽ, đảm bảo cho mọi người sống công bằng, tự do, dân chủ thực sự. Việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền với một hệ thống luật pháp chặt chẽ, nghiêm minh, phù hợp, là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công dân chủ hóa kinh tế - xã hội.
Ở Việt Nam thiếu nhiều luật, còn nhiều kẽ hở về luật, nhiều luật không chặt chẽ. Hệ thống văn bản dưới luật (chỉ thị, nghị quyết...) còn rườm rà, nhiều khi chưa kịp thực hiện đã bị xóa bỏ vì tính bất hợp lý. Hệ thống này nên thay bằng những bộ luật đầy đủ và chặt chẽ. Lực lượng hành pháp của Việt Nam còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ. Cần phải bổ sung, sửa đổi làm sao để luật pháp và lực lượng hành pháp thực sự nghiêm minh, đảm bảo điều kiện cho con người bình đẳng trước pháp luật, có như vậy con người mới có thể sống và làm việc theo luật pháp.
Dân chủ bao giờ cũng gắn liền với tự do, công bằng, bình đẳng. Một khi tự do không đảm bảo; công bằng, bình đẳng bị vi phạm, thì tính tích cực, tinh thần sáng tạo của quần chúng không nảy nở được. Tự do là quyền cơ bản của con người. Mà trong tự do, quyền cơ bản nhất lại là quyền được tự do bầu cử. Chỉ một khi con người thực sự được chọn lựa, quyết định ai sẽ là người đại diện cho mình, cho quyền lợi của mình, ai lãnh đạo mình, lãnh đạo đất nước, thì họ mới có niềm tin vào dân chủ là thực sự, tin vào tương lai đất nước, tương lai của chính mình. Chính con người cụ thể sẽ sáng suốt khi lựa chọn những đại diện thực sự có tâm, có tài để đảm bảo cho họ một tương lai vững vàng. Bầu cử phải được tổ chức một cách dân chủ thực sự, chứ không chỉ là hình thức, cầm lá phiếu đi bầu với một cơ cấu được định sẵn.
Công bằng ở đây được thể hiện trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi của công dân. Còn bình đẳng không phải là chủ nghĩa bình quân, mà Nhà nước phải có biện pháp cụ thể đảm bảo cho mọi người dân thực sự bình đẳng trước pháp luật, có có cơ hội vươn lên trong cuộc sống.
Xét cho cùng, luật pháp hoàn chỉnh trong tay một Nhà nước dân chủ sẽ là phương tiện, công cụ hữu hiệu đảm bảo cho con người được quyền sống trong một xã hội văn minh.
Giáo dục - đào tạo (GD-ĐT) là hoạt động trực tiếp nhằm nâng cao trí tuệ, hiểu biết và kinh nghiệm vận dụng những tri thức khoa học, kỹ thuật vào sản xuất. Đây là hoạt động có khả năng phát huy cao độ tiềm năng vô cùng tận ở bản thân con người. Sự phát triển của kinh tế - xã hội được quyết định bởi những con người có trình độ hiểu biết, có văn hoá và năng lực hành động. Nói khác đi, trí năng đã thành nhân tố hàng đầu. Giáo dục được coi như yếu tố cần thiết để đưa nhân loại tiến lên. Việt Nam có dân số đông, nếu không đào tạo sẽ trở thành gánh nặng, còn nếu được đào tạo chu đáo sẽ trở thành nguồn nhân lực lành nghề, tác động trực tiếp lên sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Hơn nữa, các nước khi đầu tư không chỉ nhìn vào nguồn nhân công rẻ mạt. Một đội ngũ nhân lực lành nghề, đồng bộ sẽ tạo nên sức hấp dẫn to lớn, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Hiện nay, khi quốc tế hóa, toàn cầu hóa, CMKHKT, công nghệ thông tin... không còn là những khái niệm xa lạ nữa, thì yêu cầu đối với GD-ĐT cũng tăng cao. Không quan tâm đúng mức tới GD-ĐT đồng nghĩa với yếu kém, lạc hậu, không có tương lai phát triển. Ngày nay, thông dụng một cách chia thời đại mới đối với lịch sử, đó là chia lịch sử ra làm: thời đại kinh tế lao động, thời đại kinh tế vốn, thời đại kinh tế tri thức, tương ứng với cách chia cũ là: thời đại nông nghiệp, thời đại công nghiệp, thời đại thông tin. Đối với Việt Nam, do còn đang ở trong thời đại kinh tế lao động, sự phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào lực lượng lao động rẻ mạt, nêu yêu cầu phải vượt qua thời đại kinh tế vốn đề bước ngay vào kinh tế tri thức càng to lớn. Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, nhưng Việt Nam không có quyền và không thể đánh mất cơ hội này, nếu không sẽ không thể hội nhập. Gánh nặng này đặt lên vai toàn xã hội, đặc biệt là GDĐT.
Trong những năm đổi mới, GD-ĐT của Việt Nam đã có những bước chuyển, nhưng thực chất vẫn chưa theo kịp được bước tiến của thời đại và chưa trở thành lực lượng thúc đẩy sản xuất, chất lượng giáo dục còn kém. Do vậy, cần phải đổi mới toàn diện trong GD- ĐT, nâng cao chất lượng giáo dục, trong điều kiện nền giáo dục Việt Nam  chưa đồng bộ, liên tục cải cách và còn nhiều bất cập.
Đầu tư cho giáo dục
Phải luôn coi đầu tư cho giáo dục là khâu then chốt, đột phá để có được một nền giáo dục chất lượng cao. Việt Nam đầu tư cho giáo dục còn ít, chừng >4% ngân sách Nhà nước, trong khi các nước phát triển khác, đầu tư cho giáo dục lên 20% tổng đầu tư ngân sách. Đầu tư cho giáo dục không chỉ là một chính sách xã hội mang tính nhân đạo, mà còn là chính sách kinh tế, chính sách phát triển sản xuất. Theo thống kê của Mỹ, nếu đầu tư cho giáo dục 1 USD sẽ lãi 4, còn ở Nhật 1 USD lãi 10. Đây chính là đầu tư khép kín, đầu tư trực tiếp vào con người. Nhà nước phải tăng cường hơn nữa đầu tư cho giáo dục, để giáo dục chiếm một tỉ lệ thỏa đáng trong ngân sách Nhà nước (ít nhất là 15%). Tuy vậy, do ngân sách của Nhà nước hạn hẹp và nguồn lực của người dân khó khăn, không nên đầu tư dàn trải, mà tập trung đáp ứng yêu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xây dựng một cách đồng bộ hệ thống GD-ĐT từ giáo dục mầm non cho đến đào tạo đại học và sau đại học
Tiêu chí căn bản của hệ thống giáo dục - đào tạo phải là hình thành một nền giáo dục tiên tiến, tạo cho mỗi con người có thói quen học tập suốt đời, trở thành những thành viên tích cực của xã hội. Vấn đề mấu chốt để có một nền giáo dục hiệu quả là phải đào tạo được một đội ngũ giáo viên (GV) chất lượng cao vì trong lao động sư phạm đối tượng lao động là con người, sản phẩm cũng là con người.
Muốn có một đội ngũ giáo viên đáp ứng được yêu cầu của nền giáo dục hiện đại, trước hết phải thực hiện khe khắt từ khâu tuyển sinh. Cần nâng cao những yêu cầu về nhân cách, hình thức, phong cách, kỹ năng ứng xử, kiến thức xã hội, khả năng sư phạm bẩm sinh, ngôn ngữ giao tiếp... trong việc tuyển chọn sinh viên sẽ được đào tạo thành giáo viên. Nên có một kỳ sơ tuyển trước như đối với các trường năng khiếu và trong quá trình học tập phải áp dụng nguyên tắc đào thải cho đầu ra. Có nghĩa là trong quá trình học tập, sinh viên sẽ luôn phải trải qua quá trình kiểm tra nghiêm túc về cả mặt tư cách đạo đức, tâm lý, chất lượng kiến thức... để chọn lọc được những nhà giáo tương lai có trí đức thực sự. Khẩn trương đưa việc giảng dạy công nghệ thông tin thành môn học chính cho sinh viên sư phạm. Chú ý hơn nữa việc đào tạo các năng lực cơ bản với các kỹ năng sư phạm tương ứng.
Đối với những người đã là giáo viên, phải tạo điều kiện cho họ học tập suốt đời, tự hoàn thiện về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là đặt khả năng lao động sáng tạo thành một trong những yêu cầu cơ bản đối với giáo viên, vì đối tượng của họ là con người sinh động.
Trong quá trình làm việc, phải đặt quy tắc đào thải coi như một đặc tính cạnh tranh, giúp tác động trực tiếp vào tính tích cực của người giáo viên. Không có lý gì khi những người thiếu năng lực và tư cách đạo đức lại cứ chiếm chỗ do cơ chế công chức. Do vậy, cần xem xét lại luật công chức, để có những quy định cụ thể, rõ ràng hơn, buộc đội ngũ giáo viên tự nâng cao chất lượng của mình.
Một điều kiện không thể thiếu được để thúc đẩy tính tích cực của giáo viên là chế độ đãi ngộ. Đồng lương thỏa đáng sẽ giúp họ tái sản xuất sức lao động một cách hiệu quả, làm cho họ hăng say nghề nghiệp hơn.
Giáo trình và sách giáo khoa (SGK)
Cần xây dựng giáo trình, SGK chuẩn cho từng môn học, từng cấp, từng lớp học, phù hợp với trình độ thực tế của học sinh, sinh viên và đáp ứng được yêu cầu thời đại. SGK và giáo trình không phải là sản phẩm công nghiệp, tức là khi thiết kế đã hoàn chỉnh, khuôn mẫu được đúc sẵn, các khâu công nghệ được bố cục chặt chẽ thì có thể sản xuất ra hàng loạt sản phẩm chất lượng cao. Dù muốn hay không, chất lượng của một quyển sách phụ thuộc vào tài năng của một con người hay là một nhóm nhỏ. Điều bất hợp lý là ở chỗ: hiện nay ở Việt Nam chỉ có một nhà xuất bản Giáo dục được phép biên soạn và in ấn SGK. Quyền đánh giá, duyệt cho sách được in hay không chỉ do một nhóm người quyết định. Rất nhiều tài năng sẵn có khắp nơi không được huy động vào quá trình biên soạn. Đại đa số SGK của hệ thống giáo dục nghèo nàn, sơ sài, thậm chí nhiều sai sót. ở các nước phát triển, không chỉ có một nhà xuất bản được quyền làm SGK. Bộ Giáo dục đề xuất ra một chương trình thống nhất cho cả nước với những phương hướng lớn, rồi cho phép bất kỳ nhà xuất bản nào cũng có quyền tổ chức chọn tác giả biên soạn, in và phát hành cho giáo viên lựa chọn. Quyển nào hay, được học sinh, giáo viên hưởng ứng sẽ được in ra nhiều. Giáo viên và học sinh thường là người lựa chọn sáng suốt, nên đây là sự cạnh tranh lành mạnh. Làm như vậy để khi có sự cạnh tranh, các nhà xuất bản buộc phải tìm những tác giả có khả năng nhất và từ đó sách giáo khoa sẽ có chất lượng hơn.
Đề ra mục đích đào tạo đúng đắn, phù hợp với từng bậc học
Muốn có một nền giáo dục liên hoàn, trước hết cần phải xác định được mục đích cụ thể của giáo dục với từng bậc đào tạo, sao cho những mục đích đó phù hợp với thể lực, tâm lý, trí tuệ của từng bậc học. Từ đó, nằm trong một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh, con người sẽ có được phát huy đầy đủ khả năng cá nhân và phát triển một cách toàn diện. Có thể khái quát một số yêu cầu cơ bản như sau:
Thứ nhất, đối với bậc mầm non và tiểu học, cần đặt mục đích giáo dục toàn diện, phát triển tư duy đi liền với thể lực và đạo đức lên hàng đầu. Bậc học này cần được dành sự quan tâm nhiều nhất, vì đây là thời điểm con người hình thành khả năng và kỹ năng. Không nên giáo dục nhồi nhét kiến thức và lý thuyết nặng nề. Cần dành nhiều thời gian cho rèn luyện thể chất và phát triển năng khiếu, thẩm mỹ (giờ học kiểu này nên chiếm từ 20 - 25% thời lượng giảng dạy). Đặt giáo dục thói quen tự lập, tính tự giác, thời gian làm việc có kế hoạch, nghiêm túc cho các em lên vị trí hàng đầu, nhằm tạo ra những con người có kỉ luật và tác phong công nghiệp.
Thứ hai, đối với bậc THCS và PTTH khái quát mục đích giáo dục ngắn gọn như sau:
- Học kiến thức                    - Học hành vi
- Học kỹ năng                      - Học thích ứng
Ở bậc học này cần tăng cường giáo dục và tự giáo dục, để học sinh có khả năng thích ứng, làm việc theo nhóm với tinh thần hợp tác, biết cách thu nhập và xử lý thông tin, tự đánh giá, rút kinh nghiệm ... Tóm lại là "học để biết, để làm, để chung sống với người khác và để làm người" (theo UNESCO).
Thứ ba, đối với đào tạo đại học và sau đại học, do loại hình đào tạo này không nhằm hướng tới mục đích nâng cao dân trí, mà nhằm đào tạo ra các học giả, chuyên gia, nhà công nghệ, nhà quản lý, kỹ thuật viên... nên cần xem xét mục đích đào tạo theo đó để phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên, khả năng tự học, tự sử dụng bộ não của mình, nâng cao năng lực tự nghiên cứu và kỹ năng hoạt động thực tiễn. ở bậc học này, quá trình GD-ĐT không chỉ đơn thuần truyền thụ những kiến thức, thành tựu của khoa học, mà phải tập luyện cho mỗi người nắm được tri thức, để sử dụng tri thức, đặc biệt là sáng tạo tri thức, thúc đẩy con người biết tự giải phóng tiềm năng của bản thân, biết khai thác cao độ tiềm năng bộ não của mình. Dạy học ở đây là dạy cho người học biết cách học. Khai thác bộ não, phát huy tiềm năng to lớn của bộ não, của bản thân là chiến lược dạy và học ngày nay.
Muốn thực hiện được mục tiêu này, theo cần thực hiện một số biện pháp sau đây:
- Cải tiến hợp lý chế độ thi cử, áp dụng nhiều phương thức thi cử khác nhau để nâng cao chất lượng đầu vào. Ngoài hình thức thi chung, nên có các phương pháp tuyển chọn khác như: phỏng vấn, trắc nghiệm, thi nói, các cuộc nói chuyện riêng với từng thí sinh... qua đó phân tích tâm lý, khả năng, năng lực, trình độ... để tuyển chọn vào những ngành nghề phù hợp.
- Loại trừ lối dạy áp đặt, nhồi nhét thụ động, thuyết giảng như hiện nay. Ngoài việc học tập lý thuyết, nên tăng cường các buổi thảo luận chuyên đề, xeminar... giúp cho sinh viên phát huy tính sáng tạo, tiếp thu kiến thức tốt hơn.
- Vấn đề thông tin hóa phải được đưa lên hàng đầu.
- Để đảm bảo chất lượng cho đầu ra, trong quá trình học tập, cần có hệ thống kiểm tra chặt chẽ, ngặt nghèo để loại bớt những sinh viên không đạt yêu cầu.
Quốc tế hóa giáo dục
Đây là xu thế không thể đảo ngược, do sản phẩm của bất kỳ lĩnh vực nào (trong đó có GD), đều phải đáp ứng được những tiêu chuẩn quốc tế. Thị trường thế giới thay đổi rất nhanh, nên nó đòi hỏi phải có thông tin cập nhật, chính xác, đầy đủ và thích hợp. Trong giáo dục cần tăng cường giao lưu điện tử, trau dồi thông tin, tăng cường sự hiểu biết giá trị quốc gia và quốc tế, nâng cao khả năng sử dụng tiếng Anh với tư cách là một ngôn ngữ quốc tế. Cần phải tiến tới một thế giới đa cực hơn.
Xây dựng một xã hội học tập
Xã hội học tập là một xã hội trong đó mọi người đều được học, học thường xuyên, học suốt đời. Cần làm cho mọi người có ý thức học tập, biết cách học và tự học.
Thông thường, cách tổ chức xã hội học tập bao gồm hai hệ thống giáo dục:
- Giáo dục nhà trường (vẫn có xưa nay)
- Giáo dục ngoài nhà trường
Đặc biệt, hệ thống giáo dục ngoài nhà trường (gồm các khóa học ngắn ngày, các trung tâm đào tạo, các lớp ngoại khóa...) chính là nơi có thể nâng cao trình độ cho tất cả các tầng lớp nhân dân một cách thiết thực nhất. Chương trình này tạo điều kiện cho mọi người nâng cao trình độ nhận thức, hoàn thiện bản thân, học thêm nghề nghiệp mới.
Đào tạo nhân tài
Nếu trong thời đại kinh tế lao động, sự thịnh vượng của xã hội phụ thuộc vào số lượng người lao động, thì trong thời đại kinh tế tri thức, nó lại phụ thuộc vào số lượng và chất lượng các ý tưởng sáng tạo. Các ý tưởng sáng tạo là yếu tố quyết định sức mạnh cạnh tranh quốc tế của một nước.
Việt Nam những năm vừa qua tuy có sự tăng trưởng kinh tế đáng kể, nhưng chưa có các ý tưởng sáng tạo nổi bật. Có một đội ngũ nhân tài là điều kiện tiên quyết để xã hội sản xuất ra các ý tưởng sáng tạo. Dựa trên mối quan hệ con người và tri thức, có thể chia nhân lực ra làm ba nhóm: các nhân tài, các chuyên gia, những người lao động bình thường. Các nhân tài sẽ sản xuất ra các ý tưởng sáng tạo, các chuyên gia sẽ triển khai ý tưởng đó. Nếu một dân tộc thờ ơ với vai trò các nhân tài, dân tộc đó sẽ phải trả giá. Để bắt kịp thời đại kinh tế tri thức, các cấp lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo cấp cao phải đổi mới tư duy và thừa nhận tầm quan trọng của nhân tài. Sự cạnh tranh trong thời đại kinh tế tri thức chủ yếu là sự cạnh tranh giữa các nền giáo dục, mà tính hiệu quả của nó thể hiện ở kết quả bồi dưỡng nhân tài. Đặt nhiệm vụ này lên vị trí quan trọng là cần thiết.
Chuyển giao công nghệ giáo dục
Cải cách giáo dục ở Việt Nam đang là một vấn đề thời sự nóng bỏng gây nhiều tranh cãi. Khi những cải cách ấy đang ở giai doạn thử nghiệm, thăm dò và còn nhiều bất cập, thì nhiều nước trên thế giới đã có những hệ thống giáo dục tiên tiến, hiệu quả, hoàn chỉnh, được kiểm nghiệm và thừa nhận (như Mỹ, Nhật, Anh...). Tại sao Việt Nam không tiếp thu, học tập và xin được chuyển giao công nghệ như với bao công nghệ hiện đại khác, vì GD-ĐT chính là một quy trình công nghệ khép kín, đòi hỏi đầu tư nhiều vốn và chất xám nhất. Đây cũng là một biện pháp cải cách GDĐT, mà lại là biện pháp có hiệu quả. Có lẽ không cần thiết đem cả một thế hệ ra để thử nghiệm những cải cách giáo dục nào đó, trong khi trên thế giới đã có những phương pháp được kiểm chứng, công nhận. Điều cần lưu ý ở đây là biết vận dụng, chọn lọc, cải biên cho phù hợp với thực trạng đất nước, con người Việt Nam.
KẾT LUẬN
Thế giới con người là một chỉnh thể thống nhất của "tự nhiên - xã hội - con người"; trong đó, con người vừa là điểm xuất phát, khâu trung gian và chủ thể của quá trình thống nhất ấy. Con người vừa được xem xét như một tồn tại tự nhiên, vừa được xem xét như một tồn tại tinh thần. Trong cuộc sống, con người vừa hiện diện, vừa là khởi đầu, vừa là kết thúc, đồng thời là trung tâm của mọi biến cố lịch sử. Nói cách khác, con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Trong xã hội, con người tồn tại được nhờ có lao động, nhờ có sản xuất. Xã hội lại sáng tạo ra lực lượng sản xuất để tác động vào tự nhiên, phục vụ con người. Trong lực lượng sản xuất, con người là yếu tố động nhất, quan trọng nhất vì nó tham gia vào lực lượng sản xuất bằng năng lực và trí tuệ của mình. Con người lao động với chất lượng cao là yếu tố quyết định trong hoạt động sản xuất. Trí tuệ đã làm  cho con người thành chủ thể tích cực trong sản xuất và hoạt động xã hội.
"Con người" và "nguồn lực con người" là một khái niệm thống nhất trong cách xem xét, đánh giá yếu tố con người trong quá trình phát triển của kinh tế - xã hội. Chúng có liên quan mật thiết với nhau và chiếm vị trí hàng đầu, trung tâm  trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia.
Ở Việt Nam, vấn đề trên đã và  đang được Đảng, Nhà nước quan tâm; tuy  nhiên, do những đặc điểm đặc biệt của quá trình lịch sử và cơ chế quan liêu bao cấp trước đây, nguồn lực con người của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Việc sử dụng nguồn lực con người trong các mối quan hệ với các nguồn lực khác chưa được coi trọng. Những điều kiện, yếu tố tạo nên một nguồn nhân lực đồng bộ chất lượng thực sự là động lực thúc đẩy quá trình phát triển của đất nước còn chưa được  quan tâm xây dựng đầy đủ.
Để khắc phục vấn đề này, một cơ chế xã hội hợp lý, một Nhà nước với hệ thống pháp luật chặt chẽ đảm bảo tự do, công bằng dân chủ cho tất cả mọi người là điều kiện quyết định sự thành công của chiến lược phát triển con người. Ngoài ra một hệ thống giáo dục - đào tạo đồng bộ và hoàn chỉnh sẽ là công cụ bổ sung đắc lực nâng cao chất lượng người lao động, vì  giáo dục - đào tạo là hoạt động trực tiếp tác động vào trí tuệ con người. Mô hình giáo dục và kinh tế quan hệ mật thiết với nhau. Sự tăng trưởng nền kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào khả năng sử dụng kiến thức, dữ liệu của người lao động.
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đổi mới đất nước, hơn bao giờ hết giá trị đích thực của nguồn lực con người cần có một vị trí xứng đáng trong sách lược phát triển của đất nước. Đây là điều kiện để Việt Nam có thể hội nhập và tiến bộ, xoá bỏ lạc hậu.
Nếu không biết coi trọng, sử dụng đúng đắn con người và nguồn lực con người, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội, không thoát khỏi đói nghèo, trì trệ, và sẽ chịu sự trừng phạt của lịch sử.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nguyễn Hữu Nghĩa - NXB KHXH,  Hà Nội, 1997.
2. Luật giáo dục, Công báo số 2, ngày 15 - 01 - 1999
3. Đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trong thời kỳ đổi mới của đất nước, Nguyễn Minh Quang - Tạp chí Giáo dục số 16(11/2001).
4. Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra trong việc đào tạo giáo viên ở nước ta, Nghiêm Đình Vĩ, Tạp chí Giáo dục số 16 (11/2001).
5. Chất lượng giáo viên, Trần Bá Hoành, Tạp chí Giáo dục số 16 (11/2001).
6. Mấy nét về giáo dục tiểu học ở Nhật Bản, Đỗ Xuân Thao, Tạp chí Giáo dục số 16 (11/2001).
7. Tạo bước phát triển rõ rệt cho giáo dục đại học năm đầu thế kỷ 21,Thủ tướng Phan Văn Khải - Báo Nhân dân 2/ 10/2001.
8. Về định hướng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam, Lê Viết Khuyến, Tạp chí Giáo dục số 11/ (8/ 2001)
9. Tiếp tục đổi mới và phát triển giáo dục - đào tạo theo nghị quyết Đại hội IX, Phạm Minh Hạc, Tạp chí Giáo dục số 10/(tháng 08/2001).
10. Nền kinh tế tri thức và một số vấn đề đặt ra đối với giáo dục nước ta, Nguyễn Cảnh Hồ, Phát triển giáo dục số 2 (tháng 3+4/2001).
11. Văn kiện Đại hội IX, NXB. CTQG, 2006.
1. Con người và tiến trình Khoa học kỹ thuật, ABukhôva L E. NXB. Khoa học - 1977.
2. Con người - Khoa học - Kỹ thuật, NXB Chính trị - Matxcơva 1973.
3. Con người lao động trong chiến lược đổi mới, NXB Chính trị - M. 1989.
4. Hệ thống giáo dục của Nhật Bản, Kremenchuc U. K. Tạp chí "Châu Á và Châu Phi ngày nay” số 1/2000.

Có thể Dowload tại địa chỉ: Mục Chuyên luận, trang Web TRI THỨC


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!