MỞ ĐẦU
Nhân loại đang từ giã những năm đầu
tiên của thế kỉ XXI trong một thế giới phức tạp và đầy biến động. Đặc biệt, sự
kiện 11/9 ở Mỹ đang làm thay đổi cơ bản những nhận thức về thế giới cũng như
tác động đến quan hệ các cường quốc lớn, mà những đại diện đầu tiên phải kể đến
ba nước Nga, Mỹ và Trung Quốc. Hẳn chưa ai quên, trong suốt thời kì chiến tranh
lạnh, sự vận động thăng trầm của quan hệ tam giác chiến lược Xô-Mỹ-Trung đã
từng làm khuynh đảo đời sống chính trị thế giới, tạo lập một thế cân bằng chiến
lược đặc thù trong cục diện hai cực Đông- Tây đối đầu gay gắt. Gần 10 năm đã
qua, chiến tranh lạnh lùi vào quá khứ, song quan hệ giữa Nga-Trung-Mỹ vẫn diễn
biến phức tạp, ẩn chứa nhiều bất trắc khó lường, tác động to lớn đến quá trình định
hình một trật tự quốc tế mới, trên cơ sở so sánh lực lượng thế giới đã đổi thay
rất căn bản.
Chiến tranh lạnh kết thúc cùng với
sự sụp đổ của thế giới hai cực. Đồng thời, sự sụp đổ này cũng dẫn tới hướng
phân chia và tập hợp lực lượng mới giữa các quốc gia.Từ đó hình thành nên những
trung tâm quyền lực mới, vừa hợp tác vừa đấu tranh. Trong bối cảnh đó, quan hệ
giữa các nước trong tam giác quyền lực Nga-Trung-Mỹ đã có những biến đổi nhanh
chóng, quan trọng, sâu sắc.
Sự biến đổi ấy bị chi phối bởi nhiều nguyên nhân,
mà chủ yếu là do tương quan lực lượng giữa họ đang thay đổi. Mỹ mặc dù ở thế
mạnh hơn, nhưng chưa đủ sức áp đặt đối với các đối tác. Chính sách xác lập bá
quyền lãnh đạo thế giới, luôn can thiệp sâu vào các xung đột trên thế giới- một
chính sách áp đặt và cứng rắn đã làm cho Nga và Trung Quốc lo ngại, tạo điều
kiện cho hai nước này xích lại gần nhau, để đối phó với Mỹ và các đồng minh
thân cận của Mỹ. Sau sự kiện 11/9, tình hình quốc tế cũng như trong quan hệ
quốc tế cũng có những chuyển biến nhất định. Có thể thấy sự xích lại gần nhau
và ấm lên trong quan hệ của những cường quốc này. Nói như thế không có nghĩa là
cục diện thế giới hoàn toàn thay đổi sau sự kiện kinh hoàng ấy tại nước Mỹ. Ẩn
trong cái vẻ bề ngoài hoà thuận, hợp tác và ủng hộ là những mâu thuẫn, bất đồng
còn tồn đọng và không phải dễ gì giải quyết ngay được. Sự ấm lên và xích lại
gần nhau trong quan hệ của những nước này xuất phát từ những tính toán mang
tính giai đoạn, là những bước lùi và tiến của mỗi nước trong quan hệ với đối tác,
nhằm bảo vệ và đảm bảo lợi ích quốc gia-dân tộc mình một cách hoàn thiện nhát.
Phân tích sự vận động của các mối quan hệ song phương giữa Nga-Mỹ và Trung Quốc thời gian qua và
hiện nay sẽ cho thấy rõ hơn những nhận định trên. Đó cũng là lý do tại sao tác
giả tiểu luận lựa chọn quan hệ tam giác
chiến lược giữa ba nước Mỹ-Trung- Nga, những mối quan hệ không chỉ trước kia
mới chi phối thế giới, mà hiện nay hơn bao giờ hết ảnh hưởng trực tiếp đến sự
ổn định và hoà bình của thế giới và khu vực.
Vấn đề quan hệ quốc tế sau sự kiện
11/9 xuất hiện tương đối nhiều trên các tạp chí nghiên cứu trong và ngoài nước. ở Việt Nam, trên một số
tạp chí lớn như: Quan hệ quốc tế, Nghiên cứu Châu Âu, Châu Mỹ ngày nay… số lượng
các bài viết về đề tài này không phải là nhỏ. Có những bài chủ yếu nêu sự kiện,
mặt bình luận đánh giá còn ít và quan điểm bị chi phối bởi nguồn tài liệu mà
các tác giả tham khảo. Cũng có một số bài đi vào phân tích cụ thể, nhưng thông
thường các bài viết đó chỉ đi sâu vào tìm hiểu quan hệ song phương giữa hai
quốc gia mà thôi. Những bài có tính chất hệ thống và đi sâu nghiên cứu quan hệ
tam giác của ba cường quốc Nga-Mỹ-Trung, mối quan hệ chi phối thế giới trong quá khứ, hiện tại và
có thể cả tương lai thì hầu như không có. Hoặc nếu có, thì thiên về quan điểm
cho rằng mối quan hệ này sau sự kiện 11/9 đã thay đổi cơ bản về chất. Cách đánh
giá đó nhiều khi dẫn đến những hiểu biết phiến diện. Điều nêu trên nói lên tình
hình nghiên cứu vấn đề này còn chưa toàn diện. Do vậy, trong khuôn khổ của một
chuyên luận, tác giả muốn đóng góp thêm một cách nhìn nữa về mối quan hệ tam
giác chiến lược Nga-Trung-Mỹ trên một số góc độ tiếp cận.
Mục
đích chính của chuyên luận là làm rõ bản chất mối quan hệ quốc tế trên thế giới
sau sự kiện 11/9 thông qua quan hệ giữa các cường quốc của tam giác quyền lực
Nga, Mỹ, Trung Quốc và đánh giá thực trạng những mối quan hệ ấy, cũng như vạch
ra tương lai phát triển của nó. Nhằm giải quyết mục đích trên, chuyên luận làm
sáng tỏ:
1. Bức tranh toàn cảnh quan hệ quốc
tế sau chiến tranh lạnh và xu thế phát triển của nó, để từ đó hình dung được những tiến triển của các mối
quan hệ này.
2.
Chính sách đối ngoại nói chung của ba cường quốc Nga-Trung-Mỹ hướng tới thế kỉ
XXI, để có thể theo dõi những đổi thay
của chính sách đó trong các mối quan hệ cụ thể diễn ra sau sự kiện 11/9.
3. Quan hệ tam giác chiến lược
Nga-Mỹ-Trung trước và sau sự kiện 11/9, so sánh, phân tích những mối quan hệ ấy
để thông qua đó thấu hiểu bản chất quan
hệ quốc tế sau sự kiện 11/9.
Đó cũng là cấu trúc của chuyên luận.
NỘI DUNG
1.Trật tự thế giới sau Chiến tranh
lạnh và xu hướng phát triển
Sau Chiến tranh lạnh, tình hình phát
triển của quan hệ quốc tế có hai xu hướng
chính, đó là: trong thế giới, căng
thẳng - hoà dịu, hoà bình - xung đột tồn tại song song, cùng một lúc. Sự
đối đầu giữa hai phe XHCN và TBCN đứng đầu là Liên Xô (cũ) và Mỹ đã kết thúc.
Tình hình chuyển biến lực lượng trên thế giới có nhiều thay đổi, nghiêng về
hướng có lợi cho Mỹ và Phương Tây. Mỹ
luôn muốn tiến hành một chính sách thiết lập thế giới đơn cực, do Mỹ chi phối
và quyết định. Hiện nay, có những quan
điểm khác nhau về trật tự thế giới mới. Có quan điểm cho rằng thế giới hiện tại
là đa cực, tình hình thế giới biến động dưới sự chi phối của nhiều cường quốc.
Cũng có ý kiến cho rằng thế giới là đơn cực, do Mỹ đứng đầu. Nhưng thực ra, trật
tự thế giới ở trong trạng thái lai tạp.
Thế giới không chỉ là một cực duy nhất
do Mỹ lãnh đạo, nhưng cũng chưa phải là
đa cực như là một sự phân bố cân
bằng về sức mạnh.
Thế giới không phải là một cực, vì
Mỹ vẫn không thể áp đặt ý chí của mình trong mọi hoàn cảnh. Ví dụ điển hình là
Isarael không thuần phục sức mạnh Mỹ, mặc dù Mỹ là nước bảo trợ cho tiến trình
hoà bình ở Trung Đông. Sadam Hussein không bị lật đổ như Mỹ mong muốn. Ấn Độ, Pakistan vẫn thử vũ
khí hạt nhân, bất chấp sự phản đối của Mỹ. Gần đây nhất, trong cuộc chiến chống
khủng bố, chiến tranh ở Afganitxtan, Mỹ đã phải tổ chức một liên minh chống
khủng bố trên nhiều mặt: chính trị, quân sự, tuyên truyền ngoại giao…Mặc dù Mỹ
là một siêu cường, quyết định độc đoán, áp đặt, nhưng đơn phương cũng không
giải quyết nổi nhiều vấn đề.
Thế giới chưa đa cực, vì chưa có một
cường quốc nào cạnh tranh được với Mỹ. Các nước lớn như: Nhật bản, các nước
Châu Âu, Trung Quốc, Nga cũng chưa đứng ngang tầm với Mỹ. Mỹ vẫn là siêu cường
duy nhất, vẫn thể hiện khả năng trọng tài
của mình trong công việc quốc tế. Nếu một thế giới đa cực là có sự cân bằng
ổn định giữa các cực với nhau thì trật
tự thế giới đó vẫn chưa được hình thành, cán cân hiện rõ ràng vẫn nghiêng về
phía Mỹ. Tuy kỷ nguyên bá chủ của Mỹ không còn, nhưng kỷ nguyên quyền lực trọng
tài chưa có dấu hiệu tỏ ra khép lại. Việc Mỹ đủ khả năng điều phối các quốc gia
hợp tác với Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố và tấn công Afganixtan là một
bằng chứng về quyền lực trọng tài của Mỹ. Sở dĩ Mỹ thực hiện được vai trò trọng
tài là vì sau chiến tranh lạnh, Mỹ làm chủ được hệ thống hoà nhập, tham gia
nhiều cam kết quốc tế (văn hoá, ngoại giao, chính trị, quân sự… ) và quản lý
tốt sự cam kết đó trên nhiều phương diện. Bởi vì cường quốc là sự làm chủ được
những sự tuỳ thuộc lẫn nhau. Hiện giờ, khẳng định hoặc chinh phục đã không còn
là đủ nữa, phải biết thương lượng và thuyết phục sao cho đối tác có thể chấp
nhận những nguyên tắc hành động do mình vạch ra. Mỹ làm được như vậy là dựa
trên tiềm lực của mình. Các quốc gia khác không làm được vì chủ trương ngoại
giao của những quốc gia chủ chốt trong bàn cờ chính trị thế giới có những đặc
điểm phù hợp với mục đích riêng của mỗi nước:
- Pháp: Phương thức hành động là giữ
nguyên trạng và tư tưởng cân bằng thế giới .
- Đức, Nhật: Thực hiện chiến lược
ảnh hưởng.
- Nga: Hoạch định từng bước chiến
lược mới để tái xác lập vai trò cường quốc mới của mình.
- Trung Quốc: Có mục tiêu chiến lược
là đến giữa thế kỉ XXI (năm 2050) trở thành cường quốc về kinh tế, chính trị ,
quân sự. Cho nên Trung Quốc chỉ muốn tạo nên những mối quan hệ quốc tế đa dạng,
đủ đảm bảo cho Trung Quốc có thời gian dài hoà bình, ổn định, phát triển, thông
qua quan hệ quốc tế đa dạng đó để nâng cao dần vị thế của mình ở khu vực và
quốc tế.
Các quốc gia xuất phát từ thực lực,
lợi ích của mình để xây dựng một chiến lược thích hợp với việc xác lập các mối
quan hệ khá phức tạp: đa phương, song phương, khu vực, toàn cầu, hợp tác, cạnh
tranh. Lợi ích giữa các vùng đan xen. Một thế giới không đồng nhất, không rõ
ràng do nhiều khu vực, tiểu khu vực tạo thành một cấu trúc phức tạp, bấp bênh
và đầy biến động. Giai đoạn này có thể thấy hợp tác và cạnh tranh là xu hướng
nổi bật. Toàn cảnh bức tranh thế giới là vừa
đa cực, vừa một cực, không phải thế này, cũng không phải thế kia.
Trong tương lai, trên thế giới chắc
chắn sẽ hình thành một trật tự thế giới mới- trật tự đa cực và đa dạng, thế giới tuỳ thuộc nhau mạnh mẽ. Cán cân
lực lượng chuyển sang thế một siêu cường và một nhóm các cường quốc khác. Mỹ sẽ
còn là siêu cường trong một thời gian nữa, nhưng sức mạnh của Mỹ sẽ suy giảm
trong sự so sánh với các cường quốc mới đang nổi lên. Mỹ sẽ không còn đóng vai
trò siêu cường áp đảo. Tây Âu và Nhật sẽ mạnh thêm. Trung Quốc sẽ phát triển
nhanh sức mạnh tổng hợp, đến khoảng 2020 sẽ trở thành một nền kinh tế khổng lồ.
Nước Nga sau khi phục hưng sẽ tiếp tục vai trò trung tâm của khối Slavơ. Cả bốn
trung tâm này đều muốn quan hệ tốt với Mỹ, nhưng đều có thể công khai đối đầu
với Mỹ. Lợi ích hợp tác cũng như cạnh tranh và mâu thuẫn giữa các nước, các
trung tâm lớn đan xen nhau, lúc dịu, lúc căng nhưng tính đối kháng quyết liệt
sẽ giảm bớt. Vài thập kỷ tới thế giới sẽ chứng kiến Ấn độ, khối ASEAN sẽ trở
thành những trung tâm sức mạnh được vị nể.
Trật tự đa cực sẽ càng làm nổi bật tính đa dạng trong sự phát triển của thế
giới, đa dạng về thể chế, chế độ chính trị, về loại hình cấu trúc xã hội, đa
dạng về trình độ, cung bậc phát triển, về hình thức liên kết khu vực hoặc đứng
biệt lập.
Do quốc tế hoá nền kinh tế thế giới
nên các nước lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên
kết quốc tế. Các quốc gia trở nên phụ thuộc nhau chặt chẽ và lợi ích quốc gia
gắn bó tới mức một biến động nào cũng không còn là việc riêng của mỗi nước. Sự
phát triển của một quốc gia không thể dựa trên sự đối lập với các quốc gia
khác.
Vai trò của các nước nhỏ ngày một
tăng, tiếng nói của các dân tộc trung bình và nhỏ sẽ ngày càng có trọng lượng.
Công việc quốc tế không phải là việc riêng của các nước lớn. Xu thế dân chủ hoá
toàn bộ đời sống quốc tế tuy còn lâu dài
và phức tạp nhưng sẽ phát triển manh mẽ. Đây là nguyện vọng của các dân tộc và
cũng là nhu cầu khách quan của thời đại.
Tóm lại, toàn cầu hoá là một quá
trình lâu dài và tất yếu, nhưng không bỏ qua biên giới quốc gia. Hợp tác là xu
thế chung và ngày một tăng nhưng cạnh tranh vẫn găy gắt. Mâu thuẫn giữa các
quốc gia vẫn phổ biến và đan xen, kể cả giữa các nước cùng chế độ chính trị.
Nội dung chủ yếu của các quan hệ quốc tế là cạnh tranh, hợp tác kinh tế,
nên mâu thuẫn giữa các cường quốc kinh
tế, các trung tâm quyền lực kinh tế, giữa các nước phát triển thấp với các nước
phát triển là mâu thuẫn chủ yếu của thời đại. Ngoài ra, cũng không thể coi nhẹ
mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo. Một thế giới đầy phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lự của
tất cả các quốc gia, các dân tộc. Một thế giới của sự phát triển và đi lên tuy
không thể tránh khỏi những quanh co khúc khuỷu.
2.
Chính sách ngoại giao của Mỹ, Nga, Trung Quốc trong thế kỉ XXI
2.1. Chính sách ngoại giao của Mỹ
Khi bước vào Nhà trắng Tổng thống Mỹ G.W. Bush
đã tuyên bố hùng hồn: “Nước Mỹ phải can dự khắp thế giới để mở rộng hoà bình” [28,12].
Sự can dự đó nhằm thực hiện ba mục đích cơ bản, thể hiện mục tiêu chiến lược
độc tôn, chiếm giữ vai trò lãnh đạo thế giới của mình:
- Duy trì địa vị số một của Mỹ trên
thế giới.
- Sử dụng sức mạnh Mỹ để bảo vệ lợi
ích quốc gia.
- Bảo đảm sự hơn hẳn về sức mạnh
quân sự của Mỹ đối với các nước khác.
Do vậy, chính phủ mới đã thực thi
một chính sách đối ngoại và hàng loạt hoạt động ngoại giao, nhằm thực hiện mục
tiêu chiến lược toàn cầu của Mỹ trong những thập niên đầu thế kỉ XXI. Chính
sách đối ngoại được triển khai là chính sách cứng rắn, mang màu sắc đơn phương, biệt lập, đề cao các biện pháp
sức mạnh. Đây là những thay đổi đáng
kể so với xu hướng ôn hoà, coi trọng vai trò và có tính đến lợi ích của các đối
tác và những thiết chế quốc tế dưới Chính quyền B.Clinton. Tổng thống Bush chủ
trương phải có những hình thức và biện pháp mạnh mẽ hơn để duy trì vị trí “lãnh
đạo” của Mỹ với tư cách là một siêu cường quốc thế giới về kinh tế và quân sự, đồng thời thông qua
mậu dịch tự do và toàn cầu hoá để áp đặt giá trị Mỹ ra toàn thế giới. Chính
sách cứng rắn đó được thể hiện như sau:
- Tổng thống Bush bổ nhiệm hàng loạt
các nhân vật có quan điểm cứng rắn, đại diện cho phái bảo thủ vào các vị trí
đối ngoại then chốt như : Ngoại trưởng C.Powell, Bộ trưởng bộ quốc phòng
Rumsfeld, Cố vấn an ninh quốc gia Race….
- Tổng thống Bush và các quan chức cấp cao các
bộ sức mạnh vận động để Mỹ nhanh chóng triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa
quốc gia (NMD) và hệ thống phòng thủ tên lửa chiến trường (TMB), bất chấp chi
phí tốn kém về tài chính, những khiếm khuyết về kĩ thuật và dư luận phản đối
của trong, ngoài nước.
- Mỹ đơn phương rút khỏi các hiệp
ước quốc tế. Nó thể hiện thái độ phớt lờ các trách nhiệm, nghĩa vụ quốc tế của
Mỹ. Mỹ rút khỏi Nghị định thư Kyoto về cắt giảm lượng khí thải( 28/3/2001),
quyết định nối lại các vụ thử hạt nhân (đầu tháng 7/2001), đi ngược với Hiệp
ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện (CTBT) đã được B.Clinton kí cùng với đại
diện của hơn 60 quốc gia vào năm 1999 (tuy nhiên đến nay, thượng nghị viện Mỹ
vẫn ngăn cấm việc phê chuẩn hiệp ước này và CTBT vẫn chưa có hiệu lực, đây là
điều kiện để chính phủ Bush nối lại các vụ thử hạt nhân). Ngày 24/7/2001 đại
diện của Mỹ tại cơ quan của Liên Hiệp Quốc (LHQ) ở Geneva tuyên bố chính phủ
Bush quyết định bác bỏ Nghị định thư về vũ khí hoá học và sinh học. Ngày
13/1/2001 Mỹ đơn phương rút khỏi ABM, một hiệp ước tồn tại suốt 30 năm qua, đây
là nỗ lực để chính phủ Bush rảnh tay tiến hành triển khai NMD.
- Dừng các cuộc đàm phán cũng như
các cuộc tiếp xúc, trao đối để cải thiện quan hệ của Mỹ với một loạt nước trên
thế giới. Mỹ thực hiện chính sách thù định đối với Cuba, tăng cường xiết chặt
bao vây, cấm vận, bỏ qua những bước đi tích cực để cải thiện quan hệ với Cuba
mà chính phủ B. Clinton đã từng tiến hành. Đối với Iraq, chính phủ Bush công
khai chống lại mọi nỗ lực của các thành viên Hội đồng bảo an khác trong việc dỡ
bỏ cấm vận đối với nước này. Ngoài ra, còn viện mọi cớ nhằm kéo dài, xiết chặt
cấm vận, cùng không quân Anh tăng cường sự kiểm soát “vùng cấm bay”, không ít
lần oanh tạc, ném bom xuống lãnh thổ Iraq. Chính phủ Bush cũng đình hoãn vô
thời hạn các cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ với CHDCND Triều Tiên,
tiếp tục duy trì, tăng cường sự hiện diện quân sự ở Hàn Quốc, làm trở ngại cho
quá trình hoà giải trên bán đảo Triều Tiên.
Những chính sách đối ngoại cứng rắn
của chính quyền Bush đã phần nào để lại
những hệ luỵ mà sự kiện 11/9 được coi như “lời cảnh báo nghiêm khắc” đối
với đường lối đối ngoại này. Chính vì vậy, Mỹ đã có những động thái điều chỉnh lại chính sách ngoại giao của mình cho phù hợp
với tình hình quốc tế và cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu mà Mỹ tuyên bố là
ưu tiên số một. Động thái điều chỉnh đầu tiên là Mỹ chuyển từ mục tiêu thúc
đẩy, mở rộng dân chủ và kinh tế thị trường sang ưu tiên chống khủng bố. Mỹ chia
thế giới ra làm hai phe, phe các quốc gia đi với Mỹ, chống chủ nghĩa khủng bố
và phe các quốc gia khủng bố, hậu thuẫn khủng bố. Sau đó, thay đổi thái độ theo
hướng thân thiện đối với LHQ. Tăng cường ngoại giao trong các hội nghị cấp cao,
thượng đỉnh, các diễn đàn đa phương. Thực hiện chính sách mềm mỏng hơn đối với
một số quốc gia Châu Á như Ấn Độ, Pakistan và các nước khu vực Trung đông. Đối
với Nga và Trung Quốc - hai quốc gia có sự ảnh hưởng to lớn ở Châu Âu, Châu Á,
chính sách đối ngoại của Mỹ cũng có sự tranh thủ rõ rệt. Sự thay đổi trong
chính sách ngoại giao đối với hai cường quốc lớn này sẽ được làm rõ ở phần hai.
Phân tích những hành động của Mỹ, có
thể đi đến kết luận rằng Mỹ đang cố gắng để hình thành một học thuyết chiến
lược mới là duy trì và củng cố vị thế của mình trong hệ thống quan hệ quốc tế
thế kỉ XXI, với tư cách một siêu cường duy nhất, không có đối thủ ngang hàng.
2.2. Chính sách ngoại giao của Nga
Chính sách đối ngoại của Nga, được
thể hiện rõ trong bài phát biểu của Tổng thống Nga V.P Putin với hãng thông tấn
ITAR-TASS ngày 3/1/2000, trong đó nêu rõ: “Đại gia đình thế giới cần được xây
dựng trên cơ sở bình đẳng thật sự giữa những người bạn với nhau. Cái thời thế
giới đơn cực và một nước, hoặc một vài nước làm bá chủ đã chấm dứt trong lịch
sử. Nước Nga không chủ trương quay trở lại với thời kì đối đầu và thế giới hai
cực theo kiểu nào đó. Nước Nga mong muốn gia nhập đại gia đình quốc tế, xây
dựng mối quan hệ với các nước trên cơ sở bình đẳng và hợp tác cùng có lợi” [25,12].
Ngày 20/1/2000 Bộ trưởng ngoại giao Igor Ivanov với diễn văn nhan đề “ Nước Nga
và thế giới hiện nay, chính sách đối ngoại của Nga thời buổi chuyển giao thiên
niên kỷ”, đã nêu rõ: “Nga chủ trương thiết lập một thế giới đa cực, đảm bảo an
ninh quốc tế theo kiểu mới, theo đó hiển nhiên Liên Hợp Quốc sẽ ở địa vị trung
tâm” [442,1]. Khác hẳn với Phương Tây, chủ trương thiết lập một mô hình đơn
nhất, Nga coi mô hình đa cực là
“triết lý của đời sống quốc tế, là lấy thực tế của thời đại toàn cầu làm cơ sở”
[443,1]. Nga chủ trương mọi cuộc xung đột và mâu thuẫn quốc tế phải được giải
quyết trong khuôn khổ của Hiến chương LHQ và Luật pháp quốc tế, tôn trọng độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia, phản đối nhân quyền cao
hơn chủ quyền và chống thế giới đơn cực, thiết lập quan hệ đa phương với các nước, tạo môi trường thuận lợi trong nước
để khôi phục kinh tế, đồng thời chú trọng
phát huy vai trò cường quốc của Nga trên vũ đài quốc tế. Nga đang tích cực
cải thiện, củng cố quan hệ với các đối tác truyền thống, có những bước đi quan
trọng nhằm cải thiện quan hệ với những nước mà Nga còn nhiều mắc mớ. Đó là
chính sách ngoại giao kiên trì của Nga, nhằm đạt mục đích bảo vệ lợi ích quốc
gia, đảm bảo an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo điều kiện đưa nước Nga tiến tới tương lai, dần dần
khôi phục và khẳng định mình là một cường
quốc lớn, là một trong những trung
tâm của ảnh hưởng thế giới. Nga ưu tiên Châu Âu, Á hơn Mỹ, xây dựng quan hệ
đối tác chiến lược với các nước láng giềng truyền thống, đó là củng cố quan hệ
với các nước cận biên SNG. Quan hệ này được đặt lên hàng đầu (khác với trước
đây, chính quyền Elsin xích lại gần Phương Tây), bởi nhiều lý do khác nhau.
Trước tiên là quá trình gắn bó lịch sử, kinh tế, văn hoá, chính trị …lâu đời.
Sau nữa là lý do địa chính trị- vị trí chiến lược của những nước này đối với
Nga. Những diễn biến lớn ở những nước láng giềng này ảnh hưởng trực tiếp tới
Nga. Nga chủ trương không để những nước này rơi vào vòng ảnh hưởng của Phương
Tây và Mỹ. Khi Mỹ có kế hoạch triển khai hệ thống phòng thủ NMD, Nga lập tức kí
kết với Ucraina về hợp tác trong lĩnh vực vũ trụ, đối phó với Mỹ. Các nước SNG
là vành đai an ninh, khu đệm an toàn của Nga đối với Mỹ và Phương Tây. Do vậy,
Nga kiên quyết chống sự mở rộng của NATO sang phía Đông.
Đối với Mỹ, Nga chống lại âm mưu bá
chủ của Mỹ và thực hiện chính sách đối ngoại tự chủ hơn, kiên quyết và cứng
rắn, không coi việc xích gần Mỹ là mục đích.
Trong quan hệ với Tây Âu, Nga tập
trung sự chú ý vào những lĩnh vực có chung lợi ích, tiếp tục phân hoá một số
nước Tây Âu có quan điểm khác Mỹ trong một số vấn đề.
Đối với Châu Á, Nga triển khai chính
sách cân bằng dân tộc. Putin tuyên bố: “sẽ sai lầm nếu chúng ta đặt ưu tiên vào
đâu, vào Châu Âu hay Châu Á, trong chính sách sẽ không có sự nghiêng về phía nào,
Phương Đông hay Phương Tây” [19,12].
Tóm lại, có thể thấy chính sách
ngoại giao của Nga được hoạch định sáng suốt, điều chỉnh một cách linh hoạt,
mềm dẻo, đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc, phù hợp với xu thế thời đại và đang
rất thành công trong việc cải thiện, củng cố, tăng cường quan hệ với những đối
tác truyền thống và mở rộng ảnh hưởng với những quốc gia mới.
2.3. Chính sách ngoại giao của Trung
Quốc
Cơ sở mà trên đó Trung Quốc đặt nền
móng cho chính sách ngoại giao của mình trong thời kì này là nhằm thoả mãn ba nhu cầu chính: Nhu cầu về phát triển,
chủ quyền, trách nhiệm.
Trong đó, nhu cầu về phát triển là hòn đá tảng trong sự trỗi dậy của Trung
Quốc, bởi vì trong vòng 200 năm gần đây, Trung Quốc bị làm nhục, bị bắt nạt.
Đất nước chỉ thực sự đổi thay trong khoảng 20 năm nay. Trong 20 năm, Trung Quốc
có những bước nhảy vọt, là một trong số 10 nước có GDP lớn nhất thế giới, đạt
tốc độ tăng trưởng cao trong lịch sử (8%/năm). Nhu cầu về chủ quyền cũng chiếm
vị trí không kém phần quan trọng, bởi vì an ninh, ổn định là không thể thiếu
cho sự phát triển, trong khi Trung Quốc phải đối đầu với hơn 10 quốc gia có
tranh chấp lãnh địa, lãnh hải với Trung Quốc. Xung quanh Trung Quốc có những
khu vực “nhậy cảm”, những “điểm nóng” như mối nguy hiểm quân sự hoá của Nhật
Bản, sự phát triển hạt nhân ở Nam Á. Một vấn đề quan trọng trong chiến lược
ngoại giao của Trung Quốc là Đài Loan.
Vấn đề này là cái gai nhọn trong mối quan hệ Trung –Mỹ. Lịch sử cho thấy chủ
quyền là mục tiêu quan trọng mà Trung Quốc cần đảm bảo. Còn nhu cầu thứ ba- nhu cầu về trách nhiệm đồng nghĩa với
trọng trách của một cường quốc lớn.
Trong ba lợi ích, lợi ích này mới xuất hiện trong những năm gần đây và chính
sách này sẽ xác định khả năng đối ngoại mềm dẻo của Trung Quốc. Trách nhiệm của
Trung Quốc hiện nay mới mang tính khu vực. Trong vòng 30-50 năm nữa khi Trung
Quốc trở thành một nước phát triển, chắc chắn trong chính sách ngoại giao của
Trung Quốc sẽ có những bước chuyển biến sâu xa. Hiện giờ, Trung Quốc đang có
nhu cầu về một cơ cấu thế giới ổn định, hợp lý hơn, đồng nghĩa với việc thực
hiện những mối quan hệ đa phương mang tính xác định, trong đó trật tự toàn cầu,
trật tự khu vực là rất quan trọng. Mối quan hệ này cần được xây dựng trên cơ sở
tôn trọng chủ quyền, hợp tác và tiến bộ. Trong bối cảnh toàn cầu, Trung Quốc
kiên quyết chống lại chủ nghĩa can thiệp mới do Mỹ, Anh và các nước khác bảo
trợ.
3. Quan
hệ của tam giác chiến lược Nga-Trung -Mỹ sau sự kiện 11/9.
3.1. Quan hệ Nga-Mỹ
Quan
hệ Nga-Mỹ từ xưa đến nay bao giờ cũng là một trong những mối quan hệ quan
trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh và chính trị thế giới. Thực tiễn những
năm qua cho thấy, mỗi bước đi trong chính sách đối ngoại của Nga và Mỹ, đặc
biệt là những động thái trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước cũng như giữa họ
và các nước trên thế giới luôn có ảnh hưởng to lớn đến các mối quan hệ quốc tế.
Vào thời kì chiến tranh lạnh, quan
hệ đối đầu gữa hai cực Đông-Tây (mà Nga, Mỹ là trụ cột) có tính chất toàn cầu,
đối kháng và là trục trung tâm của toàn bộ hệ thống quan hệ quốc tế. Sau Chiến
tranh lạnh, mối quan hệ này có những thay đổi cơ bản về chất. Sự đối đầu ý thức
hệ tư tưởng đã không còn là đặc điểm chủ đạo trong quan hệ hai nước. Ở thời
điểm hiện tại, mối quan hệ Nga- Mỹ vẫn là một trong những mối quan hệ then chốt
trong hệ thống các quan hệ quốc tế. Kết
quả xử lý mối quan hệ này rất quan trọng, nó ảnh hưỏng trực tiếp đến sự ổn định
hay xung đột, hỗn loạn của thế giới.
Hiện nay, trong quan hệ Nga- Mỹ, bề ngoài,
tính đối đầu không còn là điều cơ bản nữa.
Có thể nói, Nga vẫn là mối quan tâm chiến lược hàng đầu của Mỹ. Do vậy, Mỹ mặc
dù tỏ ra muốn hợp tác với Nga trên mọi bình diện, nhưng đồng thời tìm mọi cách cản trở
Nga nâng cao vị thế quốc tế, hạn chế
những khu vực ảnh hưỏng của Nga. Mỹ luôn
lợi dụng mọi cơ hội để tác động một cách đáng kể vào chính sách đối nội
cũng như đối ngoại của Nga. Những năm đầu thập kỉ 90, mặc dù chính phủ Elsin có
những động thái rõ rệt xích lại gần Phương Tây và Mỹ, nhưng giữa Nga và Mỹ vẫn
có những bất đồng đáng kể. Những bất đồng nghiêm trọng này xuất hiện trong ba
nhóm vấn đề lớn: Kinh tế, khu vực (liên quan đến vấn đề NATO mở rộng sang phía
Đông) và kiểm soát vũ khí.
Tháng 6/1992, Tổng thống B.Clinton
và B. Elsin đã ra tuyên bố chung ở trại David về quan hệ Nga - Mỹ, theo đó hai
nước là đối tác chiến lược. Trên thực tế, Mỹ luôn áp đặt và ra điều kiện cho Nga trên thế mạnh; do vậy, quan hệ hai
nước lạnh nhạt và xấu đi là điều tất yếu, nhất là sự kiện NATO mở rộng sang phía Đông. Năm 1996, Bộ
trưởng ngoại giao Primacov đưa ra khái niệm quan hệ đối tác bình đẳng giữa Nga
và Mỹ, nhằm nâng cao vị thế của Nga, nhưng vị thế của Nga chưa được nâng cao là
bao trong khi Mỹ và Phương Tây luôn tìm cách chơi xấu Nga. Việc “viện trợ có điều kiện” đã đẩy Nga
vào một cuộc khủng hoảng toàn diện. Phương Tây và Mỹ không hề gạt bỏ ý định làm
giảm ảnh hưởng của Nga trong các quan hệ
quốc tế, làm suy yếu và xé nhỏ Liên bang Nga. Họ viện trợ kinh tế, quân
sự cho quân li khai Tresnia, nhằm thành lập nhà nước Hồi giáo Trésnia-
Đaghetxtan, tách khỏi Liên bang Nga. Quan điểm chiến lược đối ngoại của Mỹ đối
với Nga được hoạch định rõ ràng, dựa trên cơ sở cho rằng Nga đang phải chịu một
cuộc khủng hoảng về thể chế sâu sắc, cho nên không thể thực hiện được một chủ
trương độc lập đi ngược lại lợi ích quốc gia của Mỹ. Nhiệm vụ của Mỹ là cô lập, trung lập hoá khu vực này, kìm hãm, duy trì nó trong tình trạng trì
trệ và lạc hậu triền miên. Để phục vụ mục đích này, Mỹ bành trướng ảnh
hướng của mình sang một số khu vực thuộc Liên Xô cũ như Bantic, Capcadơ, Trung
Á. Đặc biệt từ khi lên cầm quyền, Bush thực hiện một chính sách cứng rắn hơn
đối với Nga, thể hiện qua vụ trục xuất 50 cán bộ ngoại giao Nga, tiếp “Ngoại
trưởng” Tresnia ( ngày 26/3/2001), cắt giảm khoản tiền viện trợ cho Nga tháo bỏ
vũ khí hạt nhân, gây sức ép để Nga từ bỏ thái độ phản đối Mỹ triển khai hệ
thống phòng thủ tên lửa NMD…Những hành động trên cho thấy thái độ thiếu xây
dựng và ý muốn hình thành quan hệ không cân bằng đối với Nga, hòng kìm chế Nga,
tạo tiền đề để Mỹ trở thành bá chủ và xây dựng một thế giới đơn cực.
Từ sau khi Tổng thống Putin lên cầm
quyền, chính sách đối ngoại của Nga đối với Mỹ đã có những thay đổi cơ bản. Nga
thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự
chủ hơn, thoát khỏi sự kìm chế của Mỹ, dần dần lấy lại vị trí nước lớn. Trong Thông điệp Liên bang ngày 8/7/2000,
Tổng thống Putin nói rõ: “ Độc lập trong chính sách ngoại giao là không phải
bàn cãi”[4.10]. Nga có hàng loạt hành động cứng rắn trong quan hệ đối với Mỹ,
chống NATO phát triển sang phía Đông, phản đối việc triển khai hệ thống phòng
thủ tên lửa NMD,TMD của Mỹ. Tháng 3/2000, Nga đón tiếp Tổng thống Iran sang
thăm, kí kết hợp tác xây dựng nhà máy điện nguyên tử và xúc tiến bán vũ khí thông thường cho Iran.
Ngoài ra Nga còn tuyên bố: “Sử dụng vũ khí hạt nhân đầu tiên, nếu đối phương đe
doạ hoà bình, tồn vong của nước Nga” [8,10] (ám chỉ Mỹ là chính). Nga trục xuất
50 nhà ngoại giao Mỹ để trả đũa việc Mỹ trục xuất 50 nhà Ngoại giao Nga trong
vụ scaldan tình báo năm 2000. Khi Mỹ phớt lờ thái độ của Nga, chuẩn bị triển khai
hệ thống phòng thủ NMD, Nga đưa ra “phản đề nghị”: Nga và Tây Âu thiết lập một
hệ thống phòng thủ chung, ít tốn kém hơn NMD của Mỹ, dồn Mỹ vào thế bí cả lí lẽ
lẫn kinh tế. Tuy cứng rắn, không xem Mỹ là ưu tiên đối ngoại chính, nhưng Nga
không xem nhẹ quan hệ đối với Mỹ, thấy được sự cần hợp tác với Mỹ trên nhiều
lĩnh vực (như vốn, công nghệ…), tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ trong nhiều tổ chức
quốc tế. Do vậy, có thể nhận thấy ngay rằng thái độ “cứng” của Nga có giới hạn,
vừa đủ độ, tạo điều kiện để Nga có không
gian hoạt động độc lập với tư cách một nước lớn, chứ không nhằm đối kháng Mỹ,
chống lao vào chạy đua vũ trang với Mỹ. Sự cạnh tranh, xung đột giữa Nga và Mỹ
thể hiện sự va chạm về lợi ích khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, tìm kiếm sự hợp tác đến nay vẫn là mặt chủ
đạo trong quan hệ hai nước. Sự kiện
11/9 là một cái cớ để hai nước đi đến hợp tác và xích lại gần nhau.
Sau sự kiện 11/9, quan hệ Nga-Mỹ ấm lên đột ngột, nhờ việc Tổng thống
Putin điều chỉnh chính sách ngoại giao, ra tuyên bố năm điểm ủng hộ Mỹ. Ngay
sau sự kiện 11/9, Tổng thống Putin là vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên gọi điện
chia buồn với Tổng thống Bush. Tổng thống Putin hứa cung cấp các tin tức tình
báo về mạng lưới khủng bố cho phía Mỹ, đồng thời ra lệnh ngừng các cuộc diễn
tập đang tiến hành, nhằm để mạng lưới quan sát và phát hiện của Mỹ không bị Nga
làm phiền. Nga còn đồng ý cho phép máy bay chở hàng cứu trợ của Mỹ cho
Afganitxtan bay qua không phận của Nga, đồng ý cho phép Mỹ sử dụng các căn cứ
không quân ở Udơbekitstan, Tatgikitstan (điều này chưa từng có trong lịch sử
Nga-Mỹ. Cách đây ba năm, khi Mỹ có ý định tiêu diệt Bin Laden, Nga đã không cho
Mỹ sử dụng không phận các nước Trung Á thuộc SNG). Trước chuyến công du Mỹ của
Tổng thống Putin, phía Nga đã đưa ra tuyên bố chưa từng có về vai trò của hiệp
ước chống tên lửa đạn đạn đạo ABM. Ngày 3/112001, Bộ trưởng quốc phòng Nga
Ivanov phát biểu: “Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo ABM là một di sản của chiến
tranh lạnh”[18.6.d]. Gần đây nhất là việc Nga quyết định đóng cửa trung tâm
tình báo kĩ thuật Lourdes ở Cuba, một trung tâm tình báo hoạt động tích cực,
hiệu quả từ năm 1962. Đây là con mắt điện tử bao phủ toàn bộ vành đai Tây bán
cầu với hiệu suất tin tức quân sự về Mỹ thu được là 70-80%. Nga cũng quyết định
rút khỏi căn cứ hải quân Cam Ranh ở Việt Nam - đó là bước lùi chiến lược của
Nga trong bối cảnh tình hình thế giới đang đầy biến động như hiện nay.
Việc Nga xích lại gần Mỹ tất nhiên là vì những tính toán chiến lược sâu xa.
Phát triển quan hệ với Mỹ có lợi cho việc cải thiện môi trường bên ngoài, tạo
thời gian và không gian thuận lợi để Nga phát triển kinh tế, phục hồi sức mạnh
cường quốc. Đối đầu với Mỹ chỉ làm kìm hãm kinh tế đất nước. Hiện nay, sức mạnh
tổng hợp giữa Nga và Mỹ có sự chênh lệch quá xa (GDP của Mỹ gấp 30 lần Nga). Để
kinh tế phát triển, Nga phải dựa và viện trợ, kĩ thuật, đầu tư của Phương Tây.
Muốn cho sản phẩm mậu dịch của mình xâm nhập được vào thị trường Âu Mỹ, Nga
phải trông chờ vào việc Mỹ xoá bỏ chính sách phân biệt đối xử với Nga về mậu
dịch. Nga còn muốn tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ để Nga có thể ra nhập WTO. Hơn
nữa, những nhượng bộ của Nga đối với Mỹ còn xuất phát từ thực lực của Nga, khi
chi phí quân sự của Mỹ lên tới 328,9 tỉ USD, còn Nga chỉ có không đến 9 tỉ. Sự
phát triển quan hệ đối với Mỹ được quyết
định bởi lợi ích mỗi bên và so sánh lực lượng đôi bên và trước hết là để đảm
bảo lợi ích quốc gia, tranh thủ tối đa mọi khả năng, cơ hội để Nga có thể nhanh
chóng khôi phục kinh tế, chứ không phải lúc thể hiện thực lực ngoài biên giới.
Nga không dễ dàng thay đổi chủ trương vốn có của mình là xoá bỏ vị trí “quốc
gia hạng hai”, trở thành một cực của thế giới đa cực, mà chỉ lựa chọn cách làm
tránh gây chia rẽ, bất đồng với Mỹ. Trên thực tế, trong khi tích cực hợp tác
với Mỹ và Tây Âu chống khủng bố quốc tế, Nga vẫn không ngừng duy trì vị thế và
ảnh hưởng của mình tại Trung Á, trước hết là tại các nước cộng hoà thuộc Liên
Xô trước đây, đồng thời ngăn chặn nguy cơ tăng cường ảnh hưởng của Mỹ và Phương
Tây tại Trung Á. Việc Nga quyết định kí Hiệp ước hợp tác quân sự với Iran, cho
thấy Nga kiên trì bảo vệ lợi ích chiến lược của mình tại khu vực.
Về phía Mỹ, sự kiện 11/9 làm chiến
lược bảo vệ an ninh Mỹ bị hoài nghi. Nước Mỹ rơi vào một cơn sốc chưa từng có,
phải đối đầu trực tiếp với một kẻ thù vô hình- chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Đó
là lý do khiến Mỹ phải điều chỉnh chính
sách của mình, dùng đòn bẩy kinh tế, ngoại giao để tìm kiếm sự ủng hộ của
các nước khác. Chính sách đối ngoại của Mỹ cũng thay đổi từ chiều hướng hành động đơn phương sang hợp tác quốc tế.
Đối với Nga, Mỹ thay đổi quan điểm đối với vấn đề Tresnia, mặc dù phê phán
phương pháp tiến hành chiến dịch chống khủng bố của Nga ở đó. Mỹ thừa nhận yếu
tố khủng bố quốc tế (trước đây, điều này vẫn là cái cớ để Mỹ và Phương Tây can
thiệp vào công việc nội bộ của Nga), coi đây là cuộc chiến chống khủng bố chứ
không phải vi phạm nhân quyền. Mỹ cũng hứa xem xét việc xoá một số khoản nợ cho
Nga từ thời Liên Xô, ủng hộ việc Nga gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Ngoài ra, Mỹ cũng không đòi phá vỡ ABM như trước, mà yêu cầu đàm phán để sửa
đổi hiệp ước này sao cho Mỹ có thể triển khai NMD, mà không bị lên án là vi
phạm ABM. Mỹ cũng đã tuyên bố tạm ngừng các hệ thống phòng thủ tên lửa.
Sở dĩ Mỹ muốn cải thiện quan hệ với
Nga là vì sự ấm lên trong quan hệ hai nước cũng mang cho Mỹ những lơị ích nhất định. Hành động chống khủng bố của
Mỹ cần có sự ủng hộ của Nga. Đối với khu vực Châu Âu, Nga có ảnh hưởng đặc
biệt. Trong xung đột khu vực, Mỹ không thể không tính đến sự hiện diện và khả
năng ảnh hưởng của Nga. Nga có kho vũ khí hạt nhân khổng lồ, có thể huỷ diệt
nước Mỹ. Về mặt kinh tế, Nga có nguồn tài nguyên phong phú và thị trường rộng
lớn hấp dẫn Mỹ. Hơn nữa, nhiều năm nay Mỹ đã từng nhăm nhe nhưng chưa thiết lập
được một căn cứ nào ở khu vực Trung-Nam Á. Dưới danh nghĩa chống khủng bố, Mỹ
có “cơ hội vàng” cho tham vọng thâm nhập và tạo chỗ đứng ở khu vực này - một
mục tiêu chiến lược mang tính toàn cầu của Mỹ. Bước đi này cơ sở để Mỹ thiết
lập căn cứ chiến lược lâu dài ở vùng Trung Á và vùng biển Kaspi, kiểm soát nguồn
dầu lửa và hơi đốt, các đường ống dẫn dầu-một lợi ích kinh tế to lớn mà Mỹ mơ
ước từ lâu. Sự xích lại gần Nga đem lại thuận lợi cho Mỹ trong việc sớm đạt mục
tiêu của mình.
Có thể thấy sau sự kiện 11/9, quan
hệ Nga-Mỹ có những thay đổi nhất định.
Lần đầu tiên sau 50 năm, giữa hai nước có chung kẻ thù - đó là chủ nghĩa khủng
bố quốc tế. Nga, Mỹ ở mức độ nào, đó trở thành đồng minh trong cuộc chiến chống
Taiban và Bin lađen, chống lại những kẻ gây tội ác khi tấn công vào những người
dân vô tội ở Buzionovxki, Matxcơva hai năm trước đây và New York ngày 11/9. Tuy
vậy, những triển vọng mới trong quan
hệ hai nước vừa được mở ra lại không được tận dụng triệt để, quan hệ vẫn có
những khúc mắc nhất định. Nửa năm qua, Nga không nhận được bất cứ sự nhượng bộ
nào trong lĩnh vực kinh tế, những điều kiện hà khắc giành cho Nga để có thể ra
nhập WTO vẫn còn tồn tại, các khoản nợ của Nga vẫn chưa có đấu hiệu gì được cắt
giảm. Đạo luật Jackson-Vanik cũng chưa được huỷ bỏ, việc thành lập hội đồng
Nga-NATO mới vẫn bị trì hoãn, trong khi NATO vẫn tiếp tục thực hiện chính sách
mở rộng sang phía Đông, tiếp tục củng cố vị trí của Mỹ và NATO ở khu vực Trung
Á và Ngoại Capcadơ, Mỹ đơn phương rút khỏi hiệp ước ABM, do đó chế độ kiểm soát
vũ khí chiến lược bị phá vỡ. Trong quan hệ Nga-Mỹ còn nhiều vấn đề nghiêm
trọng, bất đồng khi xác định qui chế và thông số trong thoả thuận mới về vũ khí
chiến lược.
Mặc
dù có sự ấm lên trong quan hệ, nhưng
những mâu thuẫn và bất đồng trước đó vẫn còn tồn tại. Việc trở thành đối
tác chiến lược giữa hai nước còn nhiều khó khăn và trở ngại, bởi mục tiêu và
lợi ích chiến lược của hai bên đối lập
nhau. Mỹ chưa thôi nuôi mộng đạt được vai trò đứng đầu thế giới, không muốn
để trên thế giới xuất hiện bất kì một đối thủ cạnh tranh nào với Mỹ. Mỹ nhìn
thấy Nga là đối thủ đáng gờm ở hiện tại và trong tương lai, nên luôn muốn thực
hiện chính sách kìm hãm Nga. Trong khi đó, Nga chủ trương xây dựng một thế giới
đa cực và phát huy vai trò, góp một tiếng nói quyết định trong các vấn đề quốc
tế. Nga đang dần củng cố và phát triển, không cam chịu làm “người bạn nhỏ” của
Mỹ; vì vậy, Mỹ khó có thể sử dụng thủ đoạn lợi dụng và kìm hãm Nga. Giữa Nga và
Mỹ vẫn chưa xây dựng được mối quan hệ tin
cậy thực sự, vẫn còn nghi kị nhau trong nhiều vấn đề, ví dụ như Mỹ nghi ngờ
nền dân chủ và thị trường tự do của Nga, còn Nga vẫn chưa yên tâm bởi vẫn còn
lo ngại những quyết định độc đoán của Mỹ đối với mình. Có thể thấy rằng, đây
chưa phải là mối quan hệ bạn bè như cái vẻ ngoài của nó. Nhưng Nga-Mỹ cũng không phải là đối thủ. Trong quan hệ hai nước xuất hiện một tình
huống lạ: không là đối thủ cũng không là
đối tác. Nó giống như tình hữu nghị
giả hiệu. Trong quá khứ, quan hệ Nga-Mỹ có thể xấu hơn, nhưng nó trong tình
trạng rõ ràng. Còn hiện giờ, mối quan hệ đó thật khó gọi tên. Nó có nguy cơ
không bền vững, bởi vì những quan hệ không xác định khó tồn tại lâu dài.
3.2 .Quan hệ Trung- Mỹ
Quan
hệ Trung –Mỹ được hình thành từ nhiều thập kỉ, đặc biệt trong nửa cuối thế kỉ
XX. Quan hệ này nhiều biến động và diễn
biến khá phức tạp qua từng thời kì, phụ thuộc vào cục diện chính trị thế
giới và tương quan chính sách giữa hai nước, trong đó hợp tác và xung đột cùng tồn tại.
Nếu như trong thời kì chiến tranh
lạnh, mối quan hệ Mỹ –Trung chỉ gói gọn trong vấn đề an ninh thì hiện nay mối
quan hệ này được mở rộng, phức tạp và đa dạng hơn, bao gồm nhiều lĩnh vực chính
trị, kinh tế, ngoại giao... Tính chất quan hệ cũng đa dạng hơn: hợp tác, phối
hợp, cạnh tranh, cảnh giác, đối kháng, thậm chí xung đột lẫn nhau. Nói chính
xác hơn, tính chất vừa hợp tác vừa đối
lập là nổi trội. Từ những năm 90, Mỹ bắt đầu coi Trung Quốc là đối thủ cạnh
chiến lược tiềm tàng. Cho nên Mỹ sử dụng chiến lược “tiếp xúc toàn diện với
Trung Quốc” [21,12], nhằm hướng Trung Quốc đi vào quĩ đạo có lợi cho Mỹ. Tính
hai mặt trong chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc thể hiện rất rõ qua việc
“tiếp xúc đi liền với kiềm chế”, nhằm từng bước thay đổi chế độ xã hội ở Trung
Quốc. Quan hệ này vốn đang có những tiến triển thuận lợi dưới thời B.Clinton,
thì gặp nhiều trục trặc và rơi vào những khó khăn mới khi Bush trở thành Tổng
thống. Những bất đồng, căng thẳng nổi lên khi Mỹ dự định bán tầu khu trục hiện
đại cho Đài Loan, hay việc Mỹ ủng hộ giáo phái Pháp Luân Công, phê phán Trung
Quốc vi phạm nhân quyền…. Quan hệ này hạ xuống mức thấp nhất khi xảy ra vụ va
chạm máy bay chiến đấu của Trung Quốc và máy bay do thám Mỹ (tháng 4/2001). Vụ
va chạm này mặc dù đã được giải quyết nhưng đã làm tổn hại nghiêm trọng đến
quan hệ giữa hai nước. Nó biểu hiện mức độ nghi kị lẫn nhau. Đây là vụ khủng
hoảng thứ ba sau cuộc khủng hoảng ở eo biển Đài Loan (năm 1996) và vụ Mỹ ném
bom Đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrad (năm 1999). Cũng như những lần khủng hoảng
trước, hai bên đã giải quyết ổn thoả, không để cho khủng hoảng làm đổ vỡ quan
hệ. Nhưng quan hệ chính trị giữa hai nước đã bị phủ những đám mây đen căng
thẳng. Đây là sự đụng độ giữa một cường quốc đang nổi lên, đòi hỏi sự tôn trọng
tuyệt đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Trong quan hệ Trung –Mỹ vẫn tồn
tại những vấn đề nhạy cảm mà cụ thể là vấn đề Đài Loan, phải giải quyết sao cho
phù hợp với lợi ích lâu dài của hai đất nước. Vấn đề này là cái gai, là vấn đề
gay cấn nhất trong quan hệ Trung –Mỹ. Một vấn đề có khả năng dẫn đến đối kháng
quân sự trực tiếp. Mặc dù năm 1999, hai nước tuyên bố tôn trọng nguyên tắc “một
nước Trung Hoa” và đạt được sự tương đồng quan điểm trong một số vấn đề có tính
nguyên tắc quan trọng, nhưng những bất đồng lớn trên một số phương diện vẫn còn
tồn tại, đặc biệt là việc Mỹ đẩy nhanh tốc độ bán vũ khí cho Đài Loan. Cuối
tháng 4/2001 Mỹ công bố kế hoạch bán vũ khí lớn nhất cho Đài Loan trong gần
thập kỉ qua (lên tới 6 tỉ USD). Còn Trung Quốc gấp rút mua vũ khí của Nga. Hiện
nay, cân bằng quân sự giữa hai bờ eo biển Đài Loan không ổn định. So sánh hiện
trạng vũ khí của hai bên, có thể thấy cán cân nghiêng về phía Trung Quốc, ưu
thế vũ khí vốn có của Đài Loan đang mất dần đi.
Hai nước còn bất đồng trên một loạt
các vấn đề trong các lĩnh vực an ninh, kinh tế và dân chủ, nhân quyền. Về an
ninh, Mỹ luôn nghĩ đến năm 2020, Trung
Quốc sẽ trở thành “đối thủ cạnh tranh toàn cầu của Mỹ” [2,6b]. Báo cáo của Bộ
quốc phòng Mỹ tháng 5/2001 coi “Trung Quốc là kẻ thù tương lai của Mỹ” [4,6f].
Phía Trung Quốc cũng nhận thức được “mối đe doạ Mỹ”. Ban nghiên cứu chiến lược
Trung Quốc đầu năm 2001, đánh giá: “Mỹ là mối đe doạ và nguyên nhân chủ yếu ảnh
hưởng bất lợi đến môi trường an ninh Trung Quốc”. Về kinh tế, mặc dù quan hệ
thương mại hai nước phát triển mạnh mẽ, Trung Quốc là bạn hàng lớn thứ tư của
Mỹ, Mỹ là bạn hàng lớn thứ hai của Trung Quốc, song mối quan hệ này cũng là một
trong những nguồn gốc gây căng thẳng
trong quan hệ song phương. Về vấn đề nhân quyền, những va chạm giữa hai
nước trong lĩnh vực này là một trong những nét mâu thuẫn đặc trưng. Những căng
thẳng gần đây trong quan hệ Mỹ-Trung có nguồn gốc sâu xa từ những mâu thuẫn căn
bản và có tính chi phối. Đó là mâu thuẫn
chiến lược: mâu thuẫn giữa chủ trương xây dựng một trật tự thế giới đơn
cực, ngăn chặn không cho một nước hay một nhóm nước nào nổi lên thách thức vị trí của Mỹ và quyết tâm của
Trung Quốc vươn lên thành một cực trong trật tự thế giới đa cực
Nói chung, chính sách chủ yếu của Mỹ
đối với Trung Quốc là tích cực gia tăng ảnh hưởng tới xu thế phát triển
chính trị, kinh tế, của Trung Quốc và tiếp tục kiềm chế, ngăn không cho Trung Quốc trở thành thách thức đối với Mỹ
trong tương lai.
Sau sự kiện 11/9, Mỹ bắt đầu có cái nhìn thực tế hơn về mối quan hệ với
Trung Quốc, khi Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ, có ảnh hưởng ngày càng quan
trọng hơn, không chỉ trong khu vực, các nước thế giới thứ ba mà cả trên trường
quốc tế. Gây căng thẳng với Trung Quốc không mang lại lợi lộc gì cho Mỹ. Trước
thái độ thù địch bất hợp tác của chính phủ Bush, Trung Quốc cũng có lập trường
không nhân nhượng, đồng thời mở rộng quan hệ với những đối tác khác. Xu hướng
căng thẳng đó có nguy cơ làm cho Mỹ bị thua thiệt, lâm vào tình thế bất lợi,
mất sự ủng hộ của Trung Quốc trong hàng loạt các vấn đề quốc tế và khu vực.
Việc chuyển hướng sang cải thiện quan hệ với Bắc Kinh là hoàn toàn tự nhiên.
Trung Quốc nhận thấy rằng, đẩy Mỹ ra xa thì khó hơn, không có lợi bằng kéo Mỹ lại gần. Mỹ là
quốc gia có tiềm năng lớn, công nghệ vượt xa các nước khác trên thế giới. Trong
khi đó Trung Quốc đang thực hiện mục
đích phát triển và hiện đại hoá đất nước,
nên sự hợp tác với một quốc gia có tiềm năng như Mỹ chỉ mang lại lợi ích mà
thôi.
Là một nước láng giềng với
Afganitxtan, sự kiện 11/9 và cuộc chiến tranh ở Afganitxtan có ảnh hưởng sâu
sắc và to lớn đối với Trung Quốc. Nó làm cho vấn đề an ninh phía Tây Trung Quốc
nổi cộm, có khả năng xấu đi, đầy thách thức, phức tạp và nguy hiểm. Trước đây,
an ninh ở khu vực này khá tốt. Quan hệ láng giềng, hữu nghị với những nước Nam
Á và Trung Á phát triển toàn diện. Sự kiện 11/9 vừa có lợi, vừa có hại cho
Trung Quốc. Xét về mặt lâu dài, thì hại nhiều hơn lợi. Cái lợi là Mỹ cần phải
tìm kiếm sự ủng hộ của Trung Quốc trong cuộc chiến chống khủng bố, cho nên quan
hệ Mỹ -Trung do đó sẽ bớt căng thẳng.
Cuộc chiến do Mỹ phát động, đánh vào thế lực khủng bố quốc tế, làm cho mối đe
doạ khủng bố mà Trung Quốc phải đối mặt có thể suy giảm trong một thời gian
ngắn. Nhưng sự thay đổi bản đồ chính trị khu vực Trung Á đặt ra cho nền an ninh
Trung Quốc hàng loạt vấn đề mới. Xu hướng thân Mỹ đang rõ rệt ở khu vực cho
thấy ảnh hưởng chính trị của Mỹ tại đây đang tăng lên. Mỹ sẽ có khả năng khống
chế khu vực này và quá trình Đông tiến
của HATO áp sát Trung Quốc là không tránh khỏi. Nếu không xử lý tốt, thì Trung
Quốc sẽ phải chịu sức ép cả từ hai phía Đông-Tây. Sự thay đổi trong tương quan
lực lượng ở Trung Á sẽ làm ảnh hưởng của Trung Quốc yếu đi nhiều.
Tuy có những thiệt hơn nhất định,
nhưng trước hết, sự kiện 11/9 mở ra cơ hội để Washington và Bắc Kinh tế nhị thu nhỏ lại những vết rạn của quan hệ
Mỹ-Trung. Trung Quốc ủng hộ cuộc chiến chống khủng bố, xuất phát từ những
tính toán có lợi cho Trung Quốc trong quan hệ song phương Trung- Mỹ, cho rằng
Mỹ đã tập trung sự chú ý từ Trung Quốc sang chủ nghĩa khủng bố. Đây là lần đầu
tiên sau chiến tranh Vùng Vịnh, Trung Quốc có thái độ ủng hộ Mỹ có hành động
quân sự ở nước thứ ba. Hành động này tạo bầu không khí thân thiện, để hai bên
chuyển sắc thái cho quan hệ. Hai chuyến đi của Bush tới Trung Quốc: hội nghị
thượng đỉnh APEC(11/2001) và thăm chính thức đầu năm 2002 đã tạo cho mối quan
hệ giữa Mỹ và Trung Quốc- quan hệ giữa một cường quốc hàng đầu và một quốc gia
đông dân nhất thế giới trở nên bớt lạnh
giá hơn, đi vào quĩ đạo cần có.
Trong Hội nghị cấp cao APEC tháng
11/2001, Mỹ miêu tả quan hệ Trung- Mỹ là “rõ ràng, xây dựng và hợp tác” [6,10].
Trung Quốc không phải là đối thủ chiến lược như Mỹ đã từng quan niệm nữa. Chủ
tịch Giang Trạch Dân và Tổng Thống Mỹ Bush đã công khai ủng hộ quan điểm có thể
“phát triển một mối quan hệ mang tính xây dựng và hợp tác”. Chủ tịch Giang
tuyên bố: “Trung Quốc sẵn sàng cùng nỗ lực với phía Mỹ để phát triển một mối
quan hệ mang tính xây dựng và hợp tác”.
Tổng thống Bush đánh giá: “Chúng tôi tìm kiếm một mối quan hệ thắng thắn, xây
dựng và hợp tác”. Dường như để khẳng định nỗ
lực nhằm tái xây dựng quan hệ này, coi Trung Quốc như một đối tác chiến
lược. Đây như một thông điệp rõ ràng hơn về mối quan hệ mang tính xây dựng, tạo
điều kiện hợp tác về các vấn đề cùng quan tâm, nhưng chưa hẳn đã xoá đi những bất đồng vốn có, những vấn đề tồn tại,
những khác biệt nghiêm trọng… mặc dù cụm từ “xây dựng”, “hợp tác” là những cụm
từ yêu thích và thường xuyên có mặt trong lời nói của nguyên thủ hai nước khi
đề cập tới mối quan hệ tương lai. Có thể thấy đây là sự hợp tác nhằm đạt đến
những lợi ích ngắn hạn, hoà giải tạm thời
những xung đột. Về lâu dài, Mỹ
vẫn coi Trung Quốc là đối thủ tiềm tàng, vẫn nhìn thấy ở Trung Quốc hiểm hoạ,
nguy cơ đối với thế giới trong thế kỉ XXI. Chính sách kiềm chế đối với Trung
Quốc của Mỹ thực chất khó lòng mà thay đổi. Về phần mình, Trung Quốc có những
tính toán chiến lược riêng nên rât cần mối quan hệ ổn định với Mỹ. Nhưng trên thực tế, trong
những vấn đề toàn cầu, khu vực và song phương hai nước vừa có lợi ích chung,
lại vừa bất đồng, khiến cho quan hệ hai nước có xung đột trong hợp tác, cạnh tranh, thoả hiệp trong đấu tranh.
Nhìn tổng quát, có thể thấy quan hệ
Mỹ –Trung tuy phức tạp, nhưng vẫn là phối hợp và cạnh tranh chứ không
đối kháng. Đây là mối quan hệ quan trọng nhất ở Châu Á- Thái Bình
Dương và là mối quan hệ có tiềm năng gây xung đột nhất, bởi những mâu thuẫn cơ
bản chi phối mối quan hệ song phương này là tổng các mâu thuẫn về thế giới
quan, chiến lược, ý thức hệ, thương mại. Nhưng hai bên đều ý thức được đối
kháng là phản lợi ích. Do vậy, quan hệ sẽ mang tính cạnh tranh là chủ yếu và
tránh xung đột. Hai bên sẽ cố gắng thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác cùng có lợi,
trong khi kiềm chế ảnh hưởng của những xung đột không thể tránh. Giữa hai nước vẫn tồn tại một không
gian hợp tác. Hợp tác là nhu cầu rõ ràng, nhưng cạnh tranh, xung đột là không
tránh khỏi. Khả năng xuất hiện đối đầu trực tiếp là không thể, vì điều này có
hại cho cả hai nước, cũng như sự định hình của cục diện quốc tế mới.
3.3. Quan hệ Nga-Trung
Quan hệ Nga-Trung có chiều dài lịch
sử lâu đời và trải qua nhiều thăng trầm. Từ năm 1950, giữa hai nước đã kí kết
hiệp ước hữu nghị và đặt quan hệ ngoại giao chính thức. Hai nước đã từng sát
cánh bên nhau trên cùng một chiến tuyến trong nhiều năm liền với tinh thần quốc
tế vô sản. Sau đó, do những bất đồng quan điểm trong vấn đề tư tưởng và nhiều
vấn đề quan hệ quốc tế, nên tình hữu nghị lâu đời đó đã bị gián đoạn. Đến năm
1985, hai nước quyết định “dẹp lại quá khứ, hướng tới tương lai” [39,9], thì
quan hệ mới được nối lại. Sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ hai nước vẫn tiếp tục
chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hơn
nữa còn được nâng lên một tầm cao mới về
chất, trở thành quan hệ đối tác chiến
lược bình đẳng, cùng phối hợp, tin cậy lẫn nhau trên cơ sở năm nguyên tắc
chung sống hoà bình . Trước những diễn biến bất lợi sau Chiến tranh lạnh, hai
nước đều thấy cần thiết tăng cường hợp tác, hữu nghị để bảo vệ những giá trị và
lợi ích dân tộc, cũng như chủ quyền của đất nước. Năm 1994, với chuyến thăm của
Chủ tịch Giang Trạch Dân, quan hệ giữa Nga và Trung Quốc có những bước tiến
đáng kể. Tháng 5/1995 trong chuyến thăm chính thức Liên bang Nga của Thủ tướng
Trung Quốc Lý Bành, hai bên đã trao đổi ý kiến. Trung Quốc ủng hộ hành động của
Nga tại Tresnia, coi đó là hành động chống khủng bố. Còn Nga thể hiện sự thấu
hiểu đường lối chính trị của Trung Quốc bằng cách ủng hộ mong muốn sát nhập Đài
Loan của Trung Quốc. Trong xu thế phát triển của thế giới sau Chiến tranh lạnh, hai nước đều nhận thấy tầm quan trọng của hợp tác, hưũ nghị.
Trung Quốc với mục tiêu xoá bỏ sự tụt lùi so với các nước công nghiệp phát
triển, xây dựng tiền đề cho Trung Quốc bước vào hệ thống kinh tế thế giới, càng
thấy cần thiết hợp tác với Nga, để đảm bảo an ninh ở một vùng biên giới phía
bắc và phía tây rộng lớn (hơn 7300km2). Hai bên bắt đầu có nhiều động thái xích
lại gần nhau. Năm 1997, Nga và Trung Quốc cùng ra Tuyên bố chung về việc thiết
lập trật tự thế giới mới, trong đó nhấn mạnh rằng: “ Cần xây dựng một thế giới
mới ổn định, công bằng với trật tự quốc tế hợp lý, chống lại sự thống trị thế giới của các cường quốc” [41,9].
Sự đồng tình của hai nước tất nhiên dẫn đến những bất đồng nhất định đối với
Phương Tây.
Các nhà phân tích cho rằng, sự xích
lại gần nhau này là mong muốn quấy rầy Mỹ chiếm địa vị độc tôn trên thế giới,
chống lại ý định của Mỹ xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa. Hợp tác chiến lược Nga-Trung được thể hiện
trên các mặt như: thông qua đàm phán hoà bình giải quyết các vấn đề quốc tế;
Tôn trọng và bảo vệ lợi ích dân tộc chính đáng của mỗi bên; Thiết lập cơ chế an
ninh mới, tin cậy lẫn nhau thông qua phối hợp song phương và đa phương trong
việc tìm kiếm hoà bình, ổn định; Tích cực thúc đẩy LHQ phát huy vai trò trong
việc bảo vệ hoà bình và an ninh thế
giới; Phản đối những thế lực quốc tế can thiệp vào nội bộ nước khác dưới danh
nghĩa LHQ; Tăng cường giải trừ quân bị; Đẩy mạnh tiến trình đa cực hoá thế
giới…Trong khuôn khổ chiến lược ngoại giao “ bạn bè” gồm bốn tầng: Tầng quan hệ
mô hình ổn định (tầng thứ nhất), tầng mô hình thông thường (tầng thứ hai), tầng
mô hình có triển vọng (tầng thứ ba), tầng mô hình tiềm năng (tầng thứ bốn), thì
Trung Quốc xếp quan hệ đối với Nga ở tầng thứ nhất (trong khi
quan hệ với Mỹ ở tầng thứ hai), đủ thấy Trung Quốc đánh giá cao vai trò, vị trí
của Nga và sự xích lại gần nhau rõ rệt từ hai phía. Theo quan điểm của Trung
Quốc, đây thực sự là “mối quan hệ đã đi đến trình độ mật thiết và ổn định” [4,8].
Sự kiện mới nhất là những kí kết giữa hai nước vào tháng 7/2001 về quan hệ láng
giềng, hữu nghị, hợp tác trong 20 năm. Đây là một loạt các thoả thuận quan
trọng trên nhiều lĩnh vực để củng cố hơn nữa quan hệ song phương trong những
biến đổi của tình hình thế giới hiện nay, đặc biệt trong việc Mỹ xúc tiến triển
khai NMD. Putin và Giang Trạch Dân đã ra tuyên bố :Nga và Trung Quốc “sẽ là bạn
bè mãi mãi và không bao giờ là kẻ thù” [2,8]. Đây là giai đoạn nồng ấm nhất trong quan hệ Nga-Trung
trong suốt nửa thế kỉ qua. Nga và
Trung Quốc đang xích lại gần nhau trong những vấn đề an ninh quốc tế và khu
vực. Có thể nói, quan hệ hai nước hiện nay vươn
tới đỉnh cao trong lịch sử quan hệ
song phương sau nhiều năm mâu thuẫn và xung đột. Sự cân bằng quan hệ Nga-Trung
còn mang tính chất hợp tác trên lĩnh vực kĩ thuật quân sự, khi Nga bán cho
Trung Quốc hàng loạí vũ khí mới như máy bay, tàu ngầm…những loại vũ khí có thể
sử dụng được ở eo biển Đài Loan. Điều này được Mỹ đón nhận một cách bình tĩnh.
Tuỳ viên báo chí Nhà trắng tuyên bố: “nếu Trung Quốc và Nga tìm thấy cách thức
hợp tác hòa bình, đảm bảo an ninh và sự bền vững của thế giới, thì đó là phù
hợp với lợi ích của Mỹ” [7,10]. Tuy nhiên, Hiệp ước được kí lần này không phải
là liên minh quân sự, chỉ đề nghị sẽ gặp nhau không chậm chễ và trao đổi ý kiến
với mục đích làm mất đi hiểm hoạ mới xuất hiện . Hai bên cam kết không tham gia
vào các liên minh hoặc khối quân sự và những hoạt động chống đối phía bên kia.
Là hai nước có vũ khí hạt nhân và được coi là những nước có máu mặt trong lĩnh
vực này, hai bên cũng cam kết không bên nào sử dụng vũ khí hạt nhân đầu tiên để
chống đối lại nhau, không hướng tên lửa hạt nhân về phía nhau- một cam kết hai
bên đều có lợi. Ngoài ra, vấn đề biên giới là một trong những vấn đề gai góc,
nổi cộm trong quan hệ Nga-Trung từ nhiều năm nay cũng được giải quyết phần nào.
Nhìn lại lịch sử, vấn đề biên giới có nguồn gốc từ thế kỉ XIX, khi nước Nga Sa
Hoàng và Đế chế Trung Hoa kí Hiệp định về biên giới qua Amuar, theo đó Trung
Quốc mất một số đảo. Năm 60, những cố gắng của hai bên giải quyết vấn đề này đi
vào bế tắc. Mao Trạch Đông đã tuyên bố rằng “Nga trắng trợn cướp không của
Trung Quốc 1,5 triệu km2” [18,12] và
thuộc về Trung Quốc là “cả vùng Primore, Xakhalin, một phần Kazakxtan và
một phần các nước Trung Á”[18.12]. Năm 1969, thậm chí còn xảy ra những đụng độ
quân sự ở biên giới, nhưng có lẽ nguyên nhân sâu xa là do chính trị và tư tưởng
nhiều hơn. Năm 1985, trong cuộc gặp giữa Đặng tiểu Bình và Gorbachov, hai bên
đã đi đến những thoả thuận nhất định về biên giới để thoả mãn nhu cầu sống hoà
bình, láng giềng hữu nghị, đảm bảo an ninh dân tộc trong trật tự thế giới mới,
mở đầu cho một quan hệ tin cậy hơn giữa hai nước mà một thời gian dài bị u
ám bởi nghi ngờ và thù hận. Hiệp ước
tháng 7/2001 là một bước tiến nữa trong giải quyết vấn đề biên giới đã tạo điều
kiện cho Trung Quốc đảm bảo một cách vững chắc sự ổn định ở vùng phía Bắc rộng
lớn, để có thể rảnh tay lo vấn đề Đài Loan cũng như các vấn đề khác ở vùng
Đông-Nam và vùng phía Đông. Còn đối với Nga, những thoả thuận về kĩ thuật quân
sự, các hợp tác kinh tế trong lĩnh vực năng lượng có lợi không nhỏ cho nền kinh
tế của Nga, một nền kinh tế đang cần nhiều ngoại tệ để phục hồi và tăng tưởng.
Nga và Trung Quốc còn có nhiều quan
điểm giống nhau đối với một số vấn đề quan hệ quốc tế. Bình thường hoá quan hệ Nga-Trung là một trong những điều kiện để thiết
lập một trật tự thế giới mới đa cực, chống lại nỗ lực của Mỹ xây dựng thế
giới đơn cực. Nhìn khái quát, quan hệ Nga-Trung cho đến nay đã trải qua ba giai
đoạn: từ quan hệ “hữu nghị” (1992), tới “đối tác xây dựng” (1994) và sang quan
hệ “hợp tác, đối tác chiến lược hướng tới thế kỉ XXI” (từ cuối năm 1998 đến
nay). Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu quốc tế, Nga và Trung Quốc đang
có xu hướng thiết lập một liên minh quốc phòng thông qua một loạt hoạt động
như: hợp tác chặt chẽ giữa hai nước về mua bán vũ khí, đào tạo nhân viên quân
sự, trao đổi chính sách tình báo…Đặc biệt là trong cuộc gặp gỡ mới đây để bàn
bạc biện pháp đối phó với việc Mỹ triển khai hệ thống phòng thủ NMD, đại diện
Trung Quốc Trương Vạn Niên đã nêu đề nghị xây dựng Hệ thống phòng thủ chung
Nga-Trung. Nhưng có lẽ Nga và Trung Quốc thực tình không muốn cố kết trong một
liên minh chung, mà chỉ dùng ý đồ liên minh tay đôi làm vũ khí nhằm tìm kiếm
những nhượng bộ về phía Mỹ.
Có thể thấy quan hệ Nga-Trung những năm gần đây có những chuyển
biến tích cực và hiện đang ở đỉnh cao của quan hệ song phương. Trong bối cảnh
tình hình thế giới đang có những diễn biến khó lường, Mỹ và Phương Tây đang triển khai chiến lược toàn cầu nguy
hiểm, thì việc Nga và Trung Quốc thiết lập
được một cơ chế mới phối hợp chiến
lược với nhau là một điều có lợi
không chỉ cho lợi ích quốc gia của mỗi nước mà còn tạo đối trọng cho khuynh
hướng chính trị cường quyền, đóng góp vào việc duy trì ổn định ở khu vực Châu Á
-Thái Bình Dương, cũng như trên thế giới.
Sự kiện 11/9 không có ảnh hưởng gì
lớn lắm đến quan hệ Nga-Trung, nó chỉ càng khẳng định tính đúng đắn của việc
hai nước thân thiện và xích lại gần nhau. Đặc biệt khi Mỹ tuyên bố bắt đầu
triển khai hệ thống NMD, sau sự kiện 11/9, như một phương pháp bảo vệ nước Mỹ,
thì hai nước Nga, Trung cùng lên tiếng cực lực phản đối. Sau sự kiện 11/9, hai
bên vẫn có đồng quan điểm trong nhiều vấn đề quốc tế. Nói chung, ưu tiên số một
trong quan hệ của hai nước vẫn là hợp tác và đối thoại.
KẾT LUẬN
Từ thực tiễn vận động của quan hệ
song phương giữa ba nước lớn Nga-Trung –Mỹ, cho thấy tam giác quyền lực này đang
bước vào một giai đoạn phát triển mới
đầy bất trắc, khó lường. Việc Mỹ lợi
dụng ưu thế về nhiều mặt trong so sánh lực lượng nhằm hướng tới vị trí chủ đạo
trong quan hệ quốc tế toàn cầu, can thiệp vào công việc của nhiều quốc gia và
khu vực đã và đang đẩy Nga và Trung Quốc hướng tới nhau như một phản ứng tự
nhiên với những nỗ lực phối hợp hành động chung để đối phó. Đương nhiên, sự
xích lại gần nhau của Nga và Trung Quốc trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng
không có nghĩa là giữa hai nước sẽ hình thành một liên minh chính trị- quân sự
đối đầu với Mỹ.
Quan hệ tam giác Nga- Mỹ- Trung đầy
rắc rối và phức rạp. Trên khía cạnh chính trị và an ninh, Nga- Trung có nhiều
quyền lợi chung và quan điểm tương đồng, nhất là trong việc chống lại mưu toan
lãnh đạo thế giới của Mỹ. Nhưng trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật và văn hoá,
thì sự hợp tác Trung-Mỹ hiệu quả hơn so với hợp tác Nga-Trung, quan hệ hợp tác
Nga- Mỹ cũng vượt xa hợp tác Nga-Trung. Do vậy, mối quan hệ tam giác này khác
xa với quan hệ ở những năm 50 (Nga-Trung chống Mỹ) và năm 70 (Trung- Mỹ chống
Nga)- một quan hệ mang tính đối kháng. Hiện tại, quan hệ của tam giác chiến
lược này mặc dù vẫn tồn tại mâu thuẫn nhưng không mang tính đối kháng mà thiên
về đấu tranh và hợp tác. Bên cạnh nhu cầu hợp tác, trong quan hệ Nga-Trung -Mỹ
cũng bộc lộ tính cạnh tranh và xung đột gay gắt. Điều đó càng chứng tỏ trong
đời sống quốc tế hiện đại hợp tác và mâu
thuẫn như một phạm trù có tính qui
luật. Đây là hai mặt có liên quan chặt chẽ với nhau mà nguyên nhân xuất
phát là từ lợi ích của mỗi quốc gia-dân tộc riêng biệt. Trong một thế giới mà
tất cả các nước đang đối mặt với xu thế toàn cầu hoá toàn diện và với bối cảnh
một thế giới phức tạp, đầy biến động, đan xen những mối quan hệ song phương, đa
phương thì nét đặc trưng này buộc tất cả các nước đều phải tính đến khi hoạch
định chính sách đối ngoại.
Trong chính sách đối ngoại của mình,
Nga-Trung phản đối và chống lại sự bá quyền của Mỹ trong quan hệ quốc tế, đồng
thời cố gắng nỗ lực để đẩy quan hệ quốc tế phát triển tốt đẹp hơn. Quan hệ quốc
tế ở thế kỉ XXI có nhiều thay đổi. Sự thay đổi này khác cơ bản về chất so với
thời kì sau chiến tranh lạnh, từ chỗ mất cân bằng chuyển sang hình thành sự cân
bằng mới. Có thể nói, đặc trưng của mối quan hệ này, nhất là sau sự kiện 11/9 là
tìm kiếm sự ổn định, kiềm chế những xung
đột mang tính đối kháng. Đây cũng là trào lưu nổi bật trong quan hệ giữa
các nước lớn ở thời điểm hiện tại. Các nước đều xác lập và củng cố những điều
kiện quốc tế có lợi, mở rộng hệ số an toàn quốc gia, mở rộng môi trường hợp tác
quốc tế; trên cở sở đó, xây dựng những mối quan hệ đối tác chiến lược cân bằng,
ổn định và lâu dài ở các cấp độ khác nhau, phù hợp với xu thế và sự phát triển
của thế giới.
Sau sự kiện 11/9, nhân tố bất ổn
định ở khu vực tăng lên, khiến tình hình
quốc tế phức tạp hơn so với trước đây. Nhưng nhìn chung, cục diện cơ bản của thế giới và xu thế chung
không thay đổi. Hữu nghị và phát triển, cạnh tranh và hợp tác vẫn là xu thế
chính, chủ đạo của thời đại. Đa cực hoá là xu thế lâu dài, cơ hội nhiều hơn
thách thức. Thế giới đa cực hóa vẫn tiến
lên trong quanh co khuc khuỷu.
Sự
kiện 11/9 không làm thay đổi gì lớn trong quan hệ quốc tế cũng như giữa các nước lớn.Tuy nhiên,
sự kiện này tác động lâu dài đối với khu vực. Bởi vì giải quyết tận gốc rễ khủng
bố chính là giải quyết nạn đói nghèo. Sự kiện này còn tác động lâu dài đến những quốc gia đa sắc tộc và đa
tôn giáo,
Tóm lại, sự kiện 11/9 có tác động nhất thời tới cục diện thế
giới và quan hệ các nước lớn. Quan hệ gữa
các nước lớn chuyển động , nhưng những bất đồng cơ bản vẫn còn tồn tại. Về
lâu, về dài tình hình sẽ phụ thuộc vào những diễn biến trong tương lai. Quan hệ
quốc tế nhất định sẽ có những điều chỉnh to lớn, căn bản, khi hai nước Nga,
Trung thành công trong chấn hưng kinh tế và phát triển, thực sự trở thành cường
quốc.
DANH MỤC TÀI
LIỆU THAM KHẢO
I.TÀI LIỆU BẰNG TIẾNG VIỆT
1.V.Putin
ông là ai, Nhiều tác giả.NXB Trẻ. Năm 2000.
2.“Quan hệ Mỹ-Trung dưới chính quyền Bush: sự khởi đầu khó
khăn”, Lê Linh Lan, Tạp chí “Nghiên cứu quốc
tế”, Số 40/ 2001.
3.“Chính
sách đối ngoại cứng rắn của Bush và những hệ luỵ”, Vũ Văn Hoà, Tạp chí “Châu Mỹ ngày nay”, Số3/2002.
4. “Những động thái mới trong chính sách đối ngoại của Liên
bang Nga với Mỹ và NATO thời gian gần đây”, Thái
Văn Long, Tạp chí “Nghiên cứu Châu Âu”, Số 2/2002.
5.“Những xu hướng khác nhau trong chính sách đối ngoại của
Nga và Mỹ thời gian gần đây”, Phan
Văn Dân, Phạm Thị Phúc, Tạp chí “Nghiên cứu Châu Âu”, Số1/2000.
6.Các
tài liệu tham khảo đặc biệt của TTXVN
a. Số 14/ tháng10-2001
b. Số 7/ tháng11/2001
c.Số 5/ tháng1/2002.
d.Số 9/ tháng3/2002
f.Số 4/ tháng 5/2002.
7.
Bài “Trật tự thế giới thế kỉ XX- lịch sử và vấn đề”, Một số chuyên đề lịch
sử, Nguyễn Quốc Hùng, NXB Chính trị quốc gia. HN,2001.
II.TÀI
LIỆU BẰNG TIẾNG NGA
8.
“Nga-Trung, cây cầu vào tương lai”, V. Xcoxưrev, Tạp chí “Nhân dân các nước
Á, Phi”. Số 9/2001.
9. “Quá khứ và tương lai của mối quan hệ Trung-Nga”, Văn Sao Sinh,
Tạp chí “Nhân dân các nước Á, Phi”. Số 1/2002.
10. “Quan hệ Trung-Nga và yếu tố Mỹ”, Lý Vĩnh Sinh, Tạp chí “Nhân dân
các nước Á, Phi”, Số 3/2002.
11.
“Những hòn đá ngầm của hiệp ước”, U.Glapnovich.
Tạp chí “Nhân dân các nước Á, Phi”, Số 5/2002.
12.
Quan hệ quốc tế : Hợp tác và cạnh tranh, hướng tới thế kỉ XXI, Nhiều tác giả. NXB Khoa học. M. 2001.
Có thể tìm Dowload ở địa chỉ sau: Trang Web TRI THỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!