Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN Ở VIỆT NAM


MỞ ĐẦU
Cuối những năm 70, đầu những năm 80 (XX), Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Trong bối cảnh đó, nhiều thử nghiệm tìm tòi những mô hình kinh tế mới, vượt ra khỏi thể chế kinh tế cũ đã được tiến hành ở các cấp từ vi mô đến vĩ mô. Với việc Đảng cộng sản Việt Nam chính thức tuyên bố đường lối đổi mới tại Đại hội lần thứ VI (1986), cuộc cải cách kinh tế đã chuyển nền kinh tế sang một cơ chế hoạt động căn bản khác trước.
Trong công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng, thì đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp được coi là nét đặc trưng nổi bật, có ý nghĩa mở đầu cho công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Tiến trình lịch sử Việt Nam đã từng chỉ ra vai trò, vị trí cực kì quan trọng của nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thế nhưng có những thời điểm Việt Namđã không chú trọng đến vấn đề này, dẫn đến việc vào cuối thập kỉ 70, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam gặp những khó khăn găy gắt. 

Tuy nhiên, với công cuộc đổi mới, Đảng và Chính phủ đã ý thức được ý nghĩa chiến lược vô cùng to lớn của nông nghiệp, nông thôn: nó vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước. Đổi mới nông nghiệp đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của thực tiễn. Không phải ngẫu nhiên trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam, nông nghiệp là khâu đột phá. Với khoảng gần 60 triệu người dân sống ở nông thôn, với tỉ trọng nông nghiệp xấp xỉ bằng khu vực công nghiệp trong những năm cuối của thập kỉ 80, đầu thập kỉ 90 đã nói lên vị trí của nông nghiệp. Nông nghiệp, nông thôn còn là nơi cung cấp nguyên vật liệu, sức lao động cho công nghiệp, đồng thời là thị trường lớn nhất tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Do đớ, xuất phát từ thực tế, từ tình hình kinh tế -xã hội của đất nước, từ thực trạng nông nghiệp, nông thôn và nông dân, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chính sách đúng đắn, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển. Từ một nền nông nghiệp quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, nhờ đổi mới, đến nay Việt Namđã có một cơ chế kinh tế bước đầu hình thành tương đối phù hợp, tạo điều kiện cho nền nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, ổn định tình hình kinh tế- xã hội- một tiền đề quan trọng cho sự nghiệp đổi mới kinh tế theo đường lối của Đảng. Những đổi mới trong nông nghiệp hơn 15 năm qua có ý nghĩa thật sâu sắc. Nó góp phần trong việc dần đưa nền nông nghiệp từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá, thực hiện nhiệm vụ vừa cấp thiết trước mắt, vừa có tính chất lâu dài: CNH, HĐH đất nước. Một trong những chính sách quan trọng, đóng vai trò đòn bẩy và quyết định trong đổi mới nông nghiệp là chính sách kinh tế hộ nông dân của Đảng- một chính sách tạo động lực, thúc đẩy, phát triển tính tích cực, sự năng động kinh tế của người nông dân. Nhờ đó, Việt Nam đã giải quyết được những khó khăn cơ bản, xây dựng cơ sở vững chắc cho sự chuyển dịch của toàn bộ nền nông nghiệp, góp phần to lớn trong thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Kinh tế nông hộ ở Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển với nhiều biến động phức tạp. Đến nay, hình thức tổ chức sản xuất này đã tỏ ra có hiệu quả hơn cả. Vai trò của nó ngày càng được khẳng định trong đời sống kinh tế nông thôn. Cho nên việc hệ thống lại những bước đường biến đổi của kinh tế hộ, đặc biệt  trong thời kì đổi mới, để từ đó thấy được xu hướng vận động của nó và những vấn đề cần giải quyết để kinh tế nông hộ phát triển và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là rất cần thiết. Đó cũng là những vấn đề mà chuyên luận giải quyết trong nội dung nghiên cứu của mình.
NỘI DUNG
 I. LỊCH SỬ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN TRƯỚC ĐỔI MỚI
Nông hộ (hộ gia đình nông dân) là tế bào kinh tế xã hội, là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nông nghiệp, nông thôn đã tồn tại từ lâu ở các nước nông nghiệp. Các thành viên trong nông hộ gắn bó chặt chẽ với nhau trước tiên bằng quan hệ hôn nhân và huyết thống. Về phương diện kinh tế, các thành viên trong nông hộ liên kết với nhau trên các mặt quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm, quan hệ quản lý.
Vì có cùng chung lợi ích nên các thành viên trong nông hộ đều cố gắng tập trung sức lực cho sự phát triển của sản xuất. Do đó, hộ nông dân tồn tại bền vững, lâu dài trong lịch sử và trên mọi quốc gia, từ những nước kém phát triển đến những nước có nền kinh tế phát triển.
Ở Việt Nam, hộ nông dân là tế bào  của xã hội ở nông thôn, là đơn vị sản xuất cơ bản đã tồn tại hàng nghìn năm nay. Hộ nông dân có một quá trình phát triển lâu dài và đóng góp một vai trò tích cực trong sản xuất nông nghiệp từ nhiều năm nay. Quá trình tồn tại, phát triển của kinh tế nông hộ từ khi đất nước giành được độc lập đến trước Đổi mới có thể chia thành một số giai đoạn như sau:
Kinh tế hộ những năm 1945-1954
Sau khi lật đổ chế độ thực dân, thành lập chế độ dân chủ cộng hoà với sự phức tạp của lịch sử, đất nước bị chia ra những vùng do những chính quyền khác nhau kiểm soát, ở đó thực hiện  những chính sách kinh tế, xã hội khác nhau.
 Ở miền Bắc, bước đầu nhận thức được vai trò, vị trí  của kinh tế nông hộ, từ thực tiễn của sản xuất nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra quan điểm đúng đắn về kinh tế nông hộ và các biện pháp thúc đẩy kinh tế nông hộ. Sau Cách mạng Tháng Tám, quyền tư hữu của mọi công dân được đảm bảo trong Hiến pháp 1946. Chính sách chia lại công điền, công thổ, giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất cho dân cày nghèo đã tăng cường sở hữu, tăng cường cơ sở kinh tế của nông hộ. Không chỉ khẳng định quyền sở hữu ruộng đất của người nông dân, Chính quyền mới đã nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế cá thể, coi sự tồn tại của kinh tế cá thể là một thực tế và cần thiết
Trong kháng chiến chống Pháp năm 1945- 1954, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích kinh tế hộ phát triển, nhằm nâng cao mực độ tự cấp, tự túc về lương thực, ốn định đời sống nhân dân, động viên nguồn lực của các hộ cho kháng chiến. Những chính sách quan trọng nhất là giảm địa tô cho nông dân; xoá bỏ những địa tô phụ; giảm tức (1949-1953); hình thành hệ thống thuế có lợi và tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp, việt gian phản quốc chia cho dân nghèo; tạm giao ruộng đất vắng chủ cho nông dân; vận động địa chủ hiến ruộng. Nhờ vậy, tính đến năm 1953, trên 58% tổng số ruộng đất của thực dân, địa chủ và ruộng công đã được chia cho nông dân nghèo, quan hệ bóc lột bằng tô tức qua các hình thức phát canh thu tô và cho vay nặng lãi được khắc phục. Với chính sách như vậy, cơ cấu tầng lớp dân cư đã thay đổi, số lượng trung nông tăng lên rõ rệt.
Kinh tế hộ miền Bắc những năm 55-75
Sau 1954, đất nước chia ra làm hai miền Nam - Bắc, Việt Nam đã phải tiếp tục cuộc chiến tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc trong suốt hơn 30 năm tiếp theo đó. Ở miền Bắc, chính sách cải cách ruộng đất, hợp tác hoá đã được thực hiện ở nông thôn. Cuộc cải cách ruộng đất những năm 1953- 1954 đã trao cho nông dân nghèo ruộng đất- tài sản mà họ suốt đời  mơ ước, biến họ từ tá điền trở thành tiểu chủ. Chế độ chiếm hữu ruộng đất và phương thức bóc lột phong kiến bị xoá bỏ, thay vào đó là quyền làm chủ của hộ nông dân đối với ruộng đất. Mặc dù có một số sai lầm, nhưng cải cách ruộng đất đã tạo ra sự biến đổi có tính chất cách mạng trong cơ cấu ruộng đất và cơ cấu xã hội trong nông thôn miền Bắc. Cải cách ruộng đất cùng với các chính sách khuyến khích khôi phục kinh tế đã tạo ra một bước tăng trưởng rõ rệt trong giai đoạn 1954-1958. Sản lượng nông nghiệp năm 1957 đã vượt năm 1939 (là mức cao nhất trong thời kì trước đây). Những chính sách của Chính phủ như: bảo đảm quyền sở hữu ruộng đất của hộ nông dân; bảo hộ tài sản của nông dân và các tầng lớp khác; khuyến khích khai hoang; nghiêm cấm phá hoại sản xuất...đã thực sự giải phóng năng lực sản xuất của trên hai triệu hộ nông dân, góp phần quyết định phục hồi sản xuất nông nghiệp vừa bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
Kinh tế tiểu nông trở thành hình thức phổ biến của tất cả các hộ nông dân. Nền kinh tế này có một đặc điểm là đầu tư thấp, dẫn đến năng suất thấp và càng ngày càng biểu hiện những hạn chế của mình. Sự phát triển sản xuất bị giới hạn bởi qui mô nhỏ bé, vốn liếng ít ỏi, kĩ thuật canh tác cổ truyền, lạc hậu. Mặt khác, đã xuất hiện hiện tượng mua bán ruộng đất làm mất dần tính tích cực của cải cách ruộng đất- điều mà Chính phủ không muốn.
Để giải quyết những mâu thuẫn đó, chính sách tập thể hóa đã được thực hiện đồng loạt ở nông thôn. Với tập thể hoá, người ta hi vọng phá vỡ mô hình kinh tế tiểu nông cổ truyền và tạo lập một mô hình kinh tế mới, không bị giới hạn trong phạm vi hộ nữa.
Quá trình tập thể hoá nông nghiệp đã được thúc đẩy nhanh chóng. Chỉ trong vòng ba năm (1958-1960), 85 % số hộ và 76 % diện tích đất đai đã được đưa vào các đơn vị kinh tế tập thể với hai hình thức hợp tác xã (HTX) bậc thấp và bậc cao. 
Tập thể hoá nông nghiệp đã làm cho hộ có ít vai trò hơn trong các quyết định kinh doanh, bởi vì trong kinh tế HTX, đơn vị cơ bản là tổ, đội sản xuất. Các hoạt động kinh tế chủ yếu do HTX điều hành.
Hợp tác hoá đã phá vỡ mô hình kinh tế truyền thống trong nông thôn Việt Nam. Sản xuất của hộ chỉ còn bó hẹp ở vai trò là kinh tế phụ. Các hộ đựoc chia  một số lượng đất không vượt quá 15-20 % tổng diện tích canh tác. Theo qui định chung của Nhà nước, 5 % số ruộng đất của từng xã được chia cho hộ và dùng để  trồng rau mầu tự cấp  cho nhu cầu của gia đình, 10- 15 % diện tích ruộng đất dùng để sản xuất thức ăn cho gia súc. Trên thực tế, các hộ nông dân đã dồn mọi nguồn lực có trong hộ để thâm canh, do vậy, “kinh tế phụ” chiếm một tỉ trọng khá lớn, trên  50 % thu nhập mà hộ thu được.
 Nhìn chung, mô hình hoạt động của các hộ nông dân trong HTX tương tự như hoạt động của dân cư đô thị. Họ hoạt động theo phương thức làm công ăn lương và chỉ có hoạt động kinh doanh tương đối độc lập ở phần kinh tế phụ. Điểm khác biệt so với lao động làm công ăn lương là thù lao lao động của nông dân không cố định mà phụ thuộc vào kết quả làm ăn của HTX và chỉ được biết vào cuối vụ. Đặc biệt, trong chế độ HTX, toàn bộ các tư liệu sản xuất (TLSX) từ chỗ sở hữu cá thể trở thành sở hữu tập thể, từ chỗ có chủ thành “cha chung không ai khóc”. Như vậy, chế độ sở hữu hợp tác đã xoá bỏ quyền định đoạt trực tiếp, làm cho người nông dân xa lạ với chính TLSX của mình, làm giảm tính chủ động, tích cực của họ trong việc bảo vệ, cải tiến TLSX, nâng cao năng xuất lao động. Đồng thời, với tình trạng làm ăn kém hiệu quả của HTX, phần thu nhập của nông dân từ HTX đã không đủ sức kích thích họ làm việc cho tập thể. Đây chính là nguyên nhân cơ bản gây nên thái độ thờ ơ của người lao động đối với kinh tế tập thể, từ đó dẫn đến năng suất, chất lượng của kinh tế tập thể sút kém, dẫn đến thất bại của mô hình kinh tế tập thể. Cho đến giữa những năm 60 và đặc biệt đến giữa những năm 70, thì xu hướng quay trở về với kinh tế hộ gia đình càng trở nên rõ nét với phong trào “ba khoán”, mà thực chất là thu hẹp qui mô làm ăn tập thể ở đội sản xuất. Ý đồ khôi phục kinh tế hộ cũng nảy sinh trong những năm 60 với thử nghiệm “ khoán hộ” ở Vĩnh Phú, nhưng nó đã không được chấp nhận.
Kinh tế hộ sau khi đất nước thống nhất cho đến năm 1986
Sau khi ra khỏi chiến tranh, cùng với quá trình thống nhất đất nước về thể chế chính trị, việc nhất thể hoá thể chế kinh tế cũng được triển khai một cách tích cực. Mô hình kinh tế đã từng bước hình thành ở miền Bắc theo kiểu mẫu nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mặc dù trải qua mấy chục năm chiến tranh đã bị biến dạng nhiều, nhưng vẫn mang một số đặc trưng lớn. Đó là: Nhà nước điều khiển các hoạt động kinh tế quan trọng thông qua hệ thống kế hoạch hoá sản xuất và phân phối hàng hoá; các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được coi là nền tảng của nền kinh tế với mục đích làm cho sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể chiếm vị trí  chủ đạo trên phạm vi toàn nền kinh tế.
Hệ thống kinh tế như vậy có xu hướng đơn nhất hoá về mặt sở hữu, tức là hướng tới việc thu hẹp những thành phần kinh tế khác ngoài hai thành phần kinh tế nhà nước và tập thể. Do vậy, kinh tế hộ chỉ đóng vai trò thứ yếu trong nền kinh tế chung, là kinh tế phụ trong khu vực nông nghiệp, nông thôn, là thành phần bổ trợ mà thôi.
 Trong khu vực nông nghiệp và nông thôn, các hợp tác xã, các tập đoàn sản xuất là đơn vị sản xuất- kinh doanh chủ yếu. Cơ chế bao cấp của Nhà nước được thực hiện gián tiếp thông qua HTX.
Tất nhiên, chính sách kinh tế đó không tạo ra động lực cho các hộ gia đình và cá nhân người lao động. Tính sáng tạo, năng động kinh doanh của họ đã không có chỗ đứng trong thể chế kinh tế như vậy. Trong bối cảnh đó, kinh tế của hộ gia đình phát triển với những đặc điểm tương tự như trong nền kinh tế miền Bắc thời kì những năm 70. Hộ nông dân với tư cách là đơn vị kinh tế hầu như bị xoá bỏ. Kinh tế hộ bị hoà tan vào kinh tế tập thể. Hộ gia đình chỉ còn lại chức năng xã hội. Kinh tế ở đây mang tính chính trị đã triệt tiêu hoàn toàn  mọi năng  lực sản xuất của hộ nông dân. Ở nông thôn, đến năm 1980, khoảng 65 % số hộ nông dân nằm trong các HTX. Mô hình sở hữu tập thể bằng việc xoá bỏ kinh tế hộ nông dân xét về bản chất là phi kinh tế. Hậu quả là nông nghiệp thời kì 70-80 đã lâm vào khủng hoảng. 
Thời kì kinh tế tập thể ở qui mô cả nước sau 1975 kéo dài không lâu. Trên thực tế, kể từ khi bắt đầu thực hiện cơ chế khoán sản phẩm đến hộ gia đình (chỉ thị 100 CT. 1981), mà trong đó các hộ gia đình được khôi phục chức năng tổ chức sản xuất và tự do bán sản phẩm vượt mức khoán thì ở nông thôn, kinh tế hộ bắt đầu trở lại đóng vai trò tích cực trong quản lý sản xuất.
Tóm lại, kinh tế hộ đã trải qua những bước thăng trầm. Nó đã từng có quyền tự chủ ở những thời kì khác nhau, rồi nhanh chóng bị hoà tan vào kinh tế HTX. Nhưng thực tế của sản xuất nông nghiệp đã chứng minh vai trò, vị trí của kinh tế hộ. Chính sách và chủ trương của Đảng trong việc cải tiến hình thức khoán đã cho thấy bước đầu sự nhìn nhận đúng đắn về kinh tế nông hộ ở Việt Nam. Việc từng bước đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp thực chất chính là tái xác lập kinh tế nông hộ.
II. QUÁ TRÌNH KHẲNG ĐỊNH KINH TẾ HỘ TỰ CHỦ TRONG ĐỔI MỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP (1981-1997)
Đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp và khẳng định vai trò của kinh tế hộ nông dân là cả một quá trình dài. Tuy kinh tế hộ nông dân được trả lại phần nào sự tự chủ vào năm 1981 với khoán 100, nhưng sự chuẩn bị cho nó đã bắt đầu từ trước đó. Những bước đi ban đầu của quá trình này được đánh dấu bằng nghị quyết Hội nghị Trung ương VI (khoá IV)- tháng 9/79. Tại Hội nghị này, sau khi phân tích cụ thể tình hình và những vấn đề kinh tế- xã hội cấp bách, Trung ương đã đề ra một số giải pháp “làm cho sản xuất bung ra”, trong đó có vấn đề sản xuất của các hộ nông dân. Theo nghị quyết của Hội nghị Trung ương VI, quyền tự chủ của các hộ xã viên được tăng thêm một bước. HTX cho xã viên mượn đất làm vụ đông. Nhà nước tiến hành điều chỉnh mức thuế nông nghiệp, điều chỉnh giá thu mua và mức giá nộp nghĩa vụ lương thực. Đây thực sự là bước đi đầu tiên trong hàng loạt chủ trương, chính sách phát triển kinh tế nông hộ, nông thôn của Đảng.
Tinh thần của nghị quyết Hội nghị Trung ương VI được cụ thể hóa thêm một bước khi Ban bí thư ra Thông báo số 22, ghi nhận và cho phép các địa phương làm thử  hình thức khoán sản phẩm đối với cây lúa. Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau của các địa phương về vấn đề trên, song thực tiễn ở những nơi áp dụng hình thức này, hiệu quả kinh tế mang lại rất rõ rệt: sản lượng lúa ở các HTX thực hiện khoán sản phẩm tăng lên 10-15%/ năm  (trong khi mức tăng cả nước lúc đó là 1%/năm).
Từ tình hình đó, qua khảo sát thực tế, các địa phương đã tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của người nông dân. Ngày 13/1/1981, Ban bí thư đã ban hành Chỉ thị 100 CT về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm tới nhóm và người lao động. Từ đây, khoán sản phẩm đã chính thức trở thành cơ chế quản lý mới với tên gọi khoán 100. Mục đích, phương hướng của Chỉ thị 100 là: “khuyến khích hơn nữa lợi ích chính đáng của người lao động và làm cho mọi người tham gia các khâu trong quá trình sản xuất và quản lý của HTX đều thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng mà do đó đưa hết nhiệt tình và khả năng ra lao động, sản xuất” [1.Tr 11]. Với Chỉ thị 100, vai trò của kinh tế hộ nông dân có biến đổi hơn so với trước. Khoán 100 đã thực hiện việc trả lại một phần quyền tự chủ cho các hộ nông dân. Hộ nông dân thay thế tập thể đảm nhiệm một số khâu sản xuất nhất định (ba trong tám khâu của quá trình sản xuất được giao cho hộ nông dân thực hiện). Hình thức khoán được cải tiến từ khoán việc sang khoán sản phẩm, từ khoán theo đội và nhóm sản xuất sang khoán theo hộ gia đình xã viên. Ngoài thu nhập trong định mức khoán, hộ xã viên còn thu nhập từ sản phẩm vượt khoán. Động lực của khoán 100 nằm ở phần vượt khoán. Nên muốn có thu nhập ngày càng cao từ sản phẩm vượt khoán, trước hết hộ gia đình phải tăng chi phí về lao động: thời gian, cường độ, nhân lực, vốn và kĩ thuật canh tác...
Chỉ thị 100 của Ban bí thư đã mở ra một hướng đi mới cho kinh tế hộ nông dân, nên nhanh chóng đi vào cuộc sống, làm cho nông dân gắn bó với ruộng đất, gắn bó với sản phẩm cuối cùng hơn.
Ngày 18/1/1984, Ban bí thư ban hành Chỉ thị 38 về khuyến khích phát triển kinh tế gia đình: cho phép hộ nông dân tận dụng mọi nguồn đất  mà tập thể chưa sử dụng hết để phát triển sản xuất; miễn thuế 5 năm cho đất khai hoang, phục hoá; không đánh thuế sản xuất kinh doanh của hộ gia đình (trừ thuế sát sinh). Các hộ nông dân được quyền tự do tiêu thụ sản phẩm do lao động mà có.
Tính đúng đắn của Chỉ thị 100 được Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 3/82) khẳng định. Đại hội V nêu rõ: “khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động đang trở thành một động lực thúc đẩy phong trào thi đua sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế trong nông nghiệp” [2.Tr 18].
Như vậy, khoán 100 không đơn giản chỉ là sự cải tiến hình thức khoán như trước đây. Bước chuyển từ khoán việc sang khoán sản phẩm, từ khoán đội đến khoán hộ gia đình ở một số khâu chính là bước quá độ từ kiểu quản lý và tổ chức sản xuất tập thể sang phát huy quyền tự chủ của hộ xã viên, là bước đột phá quan trọng để nông nghiệp có những bước đi thích hợp tiếp theo.
Có thể thấy, những nghị quyết, chủ trương của Đảng đã khuyến khích và giải phóng một bước lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, tạo ra động lực mới đối với người nông dân, làm cho kinh tế nông thôn, nông nghiệp có những nét khởi sắc mới. Biểu hiện rõ nét nhất là trên mặt trận sản xuất lương thực, tổng sản lượng lương thực những năm 1981-1985 đạt 84,52 triệu tấn, tăng khoảng 20 triệu tấn so với thời kì 1976-1980. Mức bình quân lương thực đầu người từ 273kg/năm (1981) tăng lên 304kg/năm (1985).
Tuy vậy, khi nghiên cứu quá trình thực hiện khoán 100, có thể chia khoán 100 thành hai thời kì:
Thời kì đầu, khoán đã có tác dụng tích cực: sản lượng nông nghiệp tăng, có vụ tăng 10-15 %,  cá biệt có nơi tăng 20 %. Nông dân yên tâm sản xuất, đời sống xã viên phần nào được cải thiện. Nông dân bắt đầu ý thức được thành quả lao động của  mình.
Nhưng thời kì sau, từ những năm 1986-1988, sản xuất nông nghiệp lại gặp khó khăn do tác động của những nhân tố sau: bộ máy quản lý của HTX điều hành không hiệu quả, mang tính chất ăn bám, còn cồng kềnh; tình trạng “dong công, phóng điểm” không chấm dứt, làm cho thu nhập của người lao động từ kinh tế tập thể tiếp tục bị giảm sút; hệ thống tổ chức và các cơ quan dịch vụ phục vụ nông nghiệp gây nhiều phiền hà cho HTX, cho hộ xã viên, các quan hệ trao đổi thiếu bình đẳng. Có thể thấy, bản thân khoán 100 là sự thể hiện quan niệm chưa rõ ràng, dứt khoát về vai trò của kinh tế hộ nông dân. Sợ kinh tế hộ mạnh lên sẽ lấn át kinh tế hợp tác, không dám mở rộng, nới lỏng quyền tự chủ đối với hộ, sợ xuất hiện tình trạng khoán trắng.
Do những tác động tiêu cực trên đây, nông nghiệp lại bước vào thời kì bị suy giảm. Tính tích cực của người nông dân bị giảm sút, nông dân bỏ ruộng canh tác. Khoán 100 mới chỉ là bước thể nghiệm từng phần về quyền tự chủ của kinh tế hộ. Nó chưa đủ sức vượt qua những cản trở của cơ chế hành chính bao cấp để đi tới khẳng định vị trí của mình. Sở dĩ có tình trạng trên, một phần vì khoán 100 vẫn còn thực hiện trên cơ sở duy trì chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất và nhiều yếu tố của cơ chế quản lý cũ. HTX vẫn là đơn vị sản xuất kinh doanh chủ yếu. Vì thế bộc lộ những nhược điểm nhất định.
Việc phân chia quá trình sản xuất thành 8 khâu (HTX thực hiện 5 khâu, hộ xã viên đảm đương 3 khâu) không phản ánh đúng tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp và không phát huy được hết tính tích cực của người nông dân. Cơ chế khoán 100 không còn đóng vai trò tích cực nữa.
Tháng 12/1986, tại Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định đưa đất nước bước vào thời kì đổi mới toàn diện. Làn gió mới của Đại hội VI, đặc biệt là 3 chương trình kinh tế lớn mà Đại hội đề ra là lương thực- thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu, đã cho phép phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng của nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp thực sự trở thành mặt trận hàng đầu.
Trên tinh thần đổi mới của Đại hội VI, tiếp tục cải tiến cơ chế quản lý trong nông nghiệp, nông thôn, đồng thời nhằm khơi dậy và phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng của kinh tế hộ nông dân, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị đưa ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý nông nghiệp (gọi tắt là khoán 10). Nghị quyết chủ trương:
-         Thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ nhận khoán.
-         Nông dân chỉ còn một nghĩa vụ nộp thuế.
-         Thực hiện chính sách một giá, với nông dân chủ yếu là giá thoả thuận.
-         Thương mại hoá vật tư.
-         Kinh tế HTX có nhiều hình thức, từ thấp đến cao. Mọi tổ chức sản xuất kinh doanh do người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức được quản lý theo nguyên tắc dân chủ, không phân biệt qui mô và trình độ kĩ thuật.
Nghị quyết 10 cũng quyết định xoá bỏ chế độ hạch toán, phân phối theo công điểm. Các hộ nông dân nhận khoán, sau khi trừ mọi chi phí với HTX và làm nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, được hưởng phần vượt khoán. Ngoài ra, còn tiến hành giao khoán ruộng đất cho hộ nông dân; hộ nông dân được quyền sử dụng ruộng đất giao khoán trong khoảng thời gian từ 10-15 năm để sản xuất, kinh doanh. Với Nghị quyết 10, vai trò của HTX cũng có những sự thay đổi, chuyển sang làm chức năng dịch vụ và định hướng cho kinh tế hộ là chính. Như vậy, Hội nghị Trung ương VI đã khẳng định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, được quyền chủ động sản xuất kinh doanh, được khuyến khích làm giàu.
Nghị quyết 10 của Bộ chính trị và Nghị quyết Trung ương VI (khoá 6) đã đáp ứng tâm tư nguyện vọng của gần 10 triệu nông hộ trên cả nước, động viên họ tham gia chấn hưng nền nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Đây là bước tiến thứ hai (sau Chỉ thị 100) và là thắng lợi cơ bản của kinh tế hộ nông dân. So với khoán 100, thì ở khoán 10, vai trò tự chủ của hộ nông dân được khẳng định và xác lập trên thực tế. Hộ nông dân không chỉ tự chủ trong ba khâu như trong giai đoạn trước, mà trong toàn bộ quá trình sản xuất. Mức độ tự chủ trên cả ba phương diện: sở hữu, quản lý, phân phối cũng cao hơn, phù hợp hơn với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX). Hộ xã viên trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, cơ sở tồn tại của mô hình hợp tác hoá, tập thể hoá cùng với cơ chế thống quản của nó bị phá vỡ. Chính vì vậy, kinh tế hộ bước vào thời kì phát triển cao nhất từ trước đến nay. Hộ trở thành đơn vị kinh tế chủ yếu ở nông thôn, quản lý phần lớn đất đai nông nghiệp, cung cấp đại bộ phận nông sản hàng hoá. Từ vị trí phụ trợ, hộ nông dân đã xác lập lại vị trí tự chủ. Vai trò kinh tế hộ nông dân được khẳng định đã làm sống dậy tiềm năng to lớn của một lực lượng lao động đông đảo nhất trong cả nước. Quyền tự chủ của người nông dân được khôi phục, tạo điều kiện thuận lợi để khai thác có hiệu quả hơn mọi tiềm năng đất đai, tài nguyên, sức lao động... Do vậy, kinh tế nông nghiệp đã đạt được những con số đầy ý nghĩa: sản lượng lương thực qui thóc những năm 1989-1992 tăng 26,1% so với thời kì những năm 1981-1988. Bình quân lương thực một nhân khẩu tăng 12,2%. Từ năm 1989, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới, với mức 1,5 triệu tấn /năm. Cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi phát triển theo đúng hướng cần thiết. Chăn nuôi bắt đầu chuyển dịch sang sản xuất hàng hoá, chiếm 25,5 % tổng giá trị sản lượng nông nghiệp (năm 1991).
Nhìn chung, trong nông nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, dần phá vỡ thế độc canh, tự cấp, tự túc để chuyển sang hướng sản xuất hàng hoá. Cơ cấu hộ nông dân phát triển theo hướng giảm dần hộ thuần nông, tăng hộ phi nông nghiệp và đa ngành nghề. Vậy là sau 30 năm tổ chức phong trào hợp tác hoá (tập thể hoá) nông nghiệp, Việt Namđã trở lại quan điểm đúng đắn về kinh tế nông hộ. Có thể nói, kinh tế nông nghiệp cuối những năm 80, đầu 90 tiếp tục phát triển phần lớn nhờ vào sự năng động kinh tế của hộ. Tuy vậy, khoán 10 cũng dần dần bộc lộ những hạn chế mà các nghị quyết sau đó đã tiếp tục bổ sung, hoàn thiện. Nhưng đây vẫn là một trong những nghị quyết đi vào thực tế một cách nhanh nhất và tác động của nó đối với nông nghiệp hết sức to lớn, tạo ra một bước ngoặt mới cho phát triển kinh tế nông nghiệp.
Tháng 6/1991, trên cơ sở đánh giá những bước đã đạt được ban đầu rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “phát triển nông - lâm- ngư nghiệp gắn v4ới công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế –xã hội” [3.Tr 63]. Một trong những biện pháp để thực hiện nhiệm vụ trên là củng cố, tăng cường vai trò của kinh tế hộ nông dân, “ phát triển mạnh kinh tế gia đình bằng nhiều hình thức” [3.Tr 68].
Tháng 6/1993, Hội nghị Trung ương 5 (khoá VII) đã ra Nghị quyết về Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế –xã hội nông thôn, quyết định những vấn đề cơ bản trong chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đến năm 2000. Tại  Hội nghị này, Đảng đã khẳng định: “ Việc phát huy vai trò kinh tế tự chủ của hộ nông dân trong thời gian qua là một nhân tố quyết định sự chuyển biến mạnh mẽ trong nông nghiệp và nông thôn “ [4.Tr 41]. Đồng thời chỉ rõ: “ Bản thân hộ nông dân có vị trí không thể thay thế được” [4.Tr 41] (song không nên tuyệt đối hoá kinh tế hộ). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 cũng mở rộng quyền tự chủ của các hộ nông dân về vấn đề ruộng đất: ngoài quyền sử dụng còn có quyền thừa kế, cho thuê, chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp theo những qui định cụ thể của pháp luật. Nghị quyết này cũng nhấn mạnh việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế hộ nông dân, trên cơ sở phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ.
Những chủ trương, chính sách của Đảng đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất của các hộ nông dân, khiến họ yên tâm mà mang hết nhiệt tình, khả năng và nguồn vốn để đâù tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, tạo những yếu tố mới rất tích cực, trực tiếp thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phát triển, làm thay đổi sâu sắc, toàn diện kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Sản xuất nông nghiệp những năm 1993 –1995 đã tăng trưởng một cách liên tục và ổn định. Vấn đề an toàn lương thực cơ bản được khẳng định. Sản lượng lương thực và chăn nuôi tăng cao. Đời sống của các hộ nông dân được cải thiện rõ rệt. Bên cạnh đó, những cơ sở hạ tầng phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn cũng có những chuyển biến tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống lao động, sản xuất, sinh hoạt của các hộ nông dân.
Sau Luật đất đai được sửa đổi vào tháng 7/93, thì cơ sở phát triển của kinh tế hộ nông dân lại càng được đảm bảo vững chắc. Tuy đất đai vẫn thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nước quản lý, nhưng trên thực tế không thể không thừa nhận người nông dân đã có những quyền hạn không chỉ thuần tuý của người sử dụng, mà phần nào của người sở hữu. Nói cách khác, với những quyền hạn đó, người nông dân là người sở hữu trên thực tế phần ruộng đất được giao trong thời hạn nhất định. Chế độ sở hữu, sử dụng ruộng đất hiện nay là cơ sở vững chắc cho vai trò kinh tế tự chủ của hộ nông dân. Đồng thời nó cũng góp phần thúc đẩy phân công lao động trong nông nghiệp, phát triển ngành nghề ở nông thôn.
Mặc dù hiện nay, kinh tế hộ nông dân còn nhiều mặt hạn chế, nhất là về trình độ sản xuất kinh doanh và gặp nhiều khó khăn trong vấn đề vốn đầu tư phát triển sản xuất, thị trường tiêu thụ, vấn đề phân hoá giầu nghèo... Nhưng dưới ánh sáng của cơ chế quản lý mới, kinh tế hộ nông dân đã khẳng định được sức sống của mình. Kinh tế hộ nông dân được khuyến khích trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã phát triển phong phú, đa dạng. Kinh tế hộ trở nên một đơn vị kinh tế tự chủ, phù hợp với thực tiễn tình hình nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay, là một nhân tố quan trọng góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng và bước vào thời kì phát triển mới.
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam đến năm 2000 (do Đại hội VII) thông qua đã ghi rõ: “ Ở nông thôn, trên cơ sở tăng cường vai trò đơn vị kinh tế tự chủ của hộ xã viên, các HTX hướng hoạt động vào những khâu và lĩnh vực mà hộ xã viên không có điều kiện tự làm hoặc làm kém hiệu quả hơn kinh doanh tập thể, cùng với chính quyền và các đoàn thể chăm lo các vấn đề xã hội và xây dựng nông thôn mới”
các hộ nông dân được nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài  và cấp giấy chứng nhận. Luật pháp qui định cụ thể việc thừa kế và chuyển quyền sử dụng ruộng đất”.
Kinh tế các thể được khuyến khích phát triển trong các ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn, không bị hạn chế việc mở rộng kinh doanh, có thể tồn tại độc lập, tham gia các loại hình HTX, liên kết với các doanh nghiệp lớn bằng nhiều hình thức”.
Tháng /1996, Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở tổng kết thành tựu 10 năm đổi mới, đã quyết định đưa đất nước bước vào thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH mà trọng tâm là “CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn”. Đó chính là điều kiện vô cùng thuận lợi, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam trên đường phát triển, xây dựng xã hội giầu mạnh, văn minh.
Như vậy, sau Nghị quyết 10 – Nghị quyết đánh dấu lại vai trò tự chủ của kinh tế hộ, thì các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng tiếp tục khẳng định vị trí của kinh tế hộ nông dân trong nền sản xuất nông nghiệp. Từ thực tế của nhiều nước trên thế giới, từ kết quả bước đầu của đổi mới  quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam mấy năm gần đây, có thể khẳng định: kinh tế hộ nông dân là hình thức kinh tế phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp và là hình thức chủ yếu trong hệ thống tổ chức kinh tế nông nghiệp. Tăng cường vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân là con đường đúng đắn để thúc đẩy nông nghiệp phát triển vững chắc.
III. MỘT VÀI NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
Phát huy quyền làm chủ, tính sáng tạo của quần chúng
Trước tình hình đất nước khủng hoảng trầm trọng, nền nông nghiệp không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu về lương thực, thực phẩm của đất nước thì vấn đề đặt ra lúc này là phải có những bước đi hợp qui luật, khắc phục được những nguyên nhân gây ra tình trạng trì trệ đó. Điều cơ bản là phải giải phóng và phát huy được nhân tố con người- LLSX, nhân tố số một, quyết định, đồng thời phải sử dụng các TLSX khác một cách hợp lý hơn, có hiệu quả hơn- điều mà  HTX không làm được. Cốt lõi của quá trình này là phải khắc phục được việc tách rời người lao động với TLSX, mà ruộng đất là TLSX quan trọng nhất, không thể thay thế được trong nông nghiệp, gắn được người lao động với kết quả sản xuất cuối cùng của chính mình, xoá bỏ tình trạng phân phối bình quân, xoá bỏ thói quen dựa dẫm, ỷ lại, tăng đáng kể thu nhập tương xứng với sức lao động bỏ ra, đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích của người lao động.
Trước đây, do không nhìn nhận được bản chất của nền nông nghiệp Việt Nam là sản xuất nhỏ, manh mún, công cụ sản xuất thủ công, phương thức canh tác lạc hậu, nền sản xuất ở trình độ xã hội hoá thấp, chưa có nhu cầu khách quan phải hợp tác và phân công lao động chặt chẽ, chuyên sâu trên qui mô lớn, Việt Nam đã thực hiện một chính sách kinh tế sai lầm thể hiện ở con đường tập thể hoá, hợp tác hoá vội vàng, đưa HTX phát triển lan tràn, đẩy HTX từ qui mô nhỏ lên qui mô lớn, từ bậc thấp lên bậc cao. HTX tuy có tác dụng trong chiến tranh, nhưng sau chiến tranh Việt Namkhông nhìn thấy sự bất hợp lý, lại nhân rộng ra cả nước, thoát ly ngày càng xa trình độ của LLSX, vi phạm qui luật khách quan. Tình trạng đó đã dẫn đến sự phát triển của trình độ và quan hệ sản xuất (QHSX) không phù hợp với tính chất, trình độ của LLSX, gây hậu quả khủng hoảng. HTX đã triệt tiêu tính năng động, tự chủ của người lao động. Trước thực tế đó, quần chúng đã sáng tạo ra hình thức khoán mới (khác với khoán chui ở những năm 60). Đảng đã nghiên cứu, tổng kết tình hình thực tiễn, mạnh dạn đưa ra chủ trương đổi mới cơ cấu quản lý nông nghiệp với chính sách khoán hộ là hạt nhân.  Chính sách đó đã tỏ ra phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước, phù hợp với qui luật khách quan. Việc lấy hộ gia đình làm đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo ra hình thức tổ chức và các quan hệ kinh tế đáp ứng được nhu cầu của LLSX, mở ra địa bàn thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo của người lao động trong điều kiện sản xuất nhỏ, sử dụng công cụ thủ công là chính. Việc giao ruộng đất cho nông dân theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương V (tháng 6 /93) đã trả lại cho người lao động TLSX quan trọng nhất. Như vậy, việc đưa kinh tế hộ gia đình thành đơn vị kinh tế tự chủ trở thành nhân tố tăng trưởng trực tiếp trong nông nghiệp, đưa nông nghiệp và đất nước ra khỏi khủng hoảng, góp phần thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tạo điều kiện tối đa cho việc phát huy tính năng động, tự chủ của người nông dân
Cơ chế khoán 100 (tháng1/81) - cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động đã tạo tiến bộ vượt bậc trong nông nghiệp.  Một thời gian ngắn sau đó, Đảng đã ra Nghị quyết 10 (1988) Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, thực hiện giao ruộng khoán cho hộ sử dụng lâu dài, đồng thời điều chỉnh quan hệ đối với TLSX một bước quan trọng. Chính sách ruộng đất của Đảng thực chất đã thủ tiêu cơ sở kinh tế của sự tồn tại mô hình hợp tác hoá, tập thể hoá kiểu cũ. Người lao động được gắn kết chặt chẽ hơn với TLSX, tạo nên sức bật chưa từng thấy của sản xuất nông nghiệp. Tiếp đến Nghị quyết Hội nghị trung ương 6 (khoá VI-tháng 3/89) đã chính thức thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ. Người nông dân dần dần đóng vai trò chủ thể trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Điều đó hoàn toàn phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp, với trình độ của sản xuất nông nghiệp hiện nay.
Sau đó Hội nghị Trung ương 5 ( khoá VII- 6/93) và Luật đất đai ban hành tại kì họp Quốc hội  VIII- 7/93, đã thực hiện sát sao khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Mặc dù về mặt pháp lý, ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, song với quyền hạn được sử dụng đất lâu dài, người nông dân đã có quyền hạn phần nào của người sở hữu. Hay nói khác đi, người nông dân là người sở hữư trên thực tế phần ruộng đất được giao trong thời hạn nhất định.
Tiếp theo, hàng loạt các chính sách “cởi trói”, làm cho “sản xuất bung ra”(Nghị định 25 CP, Nghị định 217- HĐBT, các chính sách bù giá vào lương, chính sách nới lỏng hạn chế đối với khu vực kinh tế tư nhân, mở rộng qui mô và mức độ hoạt động của thị trường tự do....) đã có tác dụng cộng hưởng làm cho khoán 10 có thể tạo ra bước nhẩy vọt mới
Giải quyết tốt  quan hệ kinh tế giữa  HTX và hộ nông dân
Mục đích của đổi mới trong nông nghiệp là nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa. Vì vậy, việc đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất, trong đó có việc đa dạng hoá các hình thức hợp tác là một tất yếu kinh tế. Hơn nữa, trong quá trình sản xuất, sẽ xuất hiện nhu cầu hợp tác, liên kết, liên doanh giữa các hộ. Đây cũng là một tất yếu của quá trình phát triển phân công và hợp tác lao động trong kinh tế nông nghiệp. Chính trên cơ sở này, HTX mới ra đời theo đúng qui luật và nguyên tắc tự nguyện. Trong thực tế sản xuất, còn có nhiều khâu mà các hộ không thể tự làm được như: thuỷ lợi, bảo vệ thực vật...ở những khâu đó, HTX tỏ ra có ưu thế rõ rệt. Hơn nữa, trong tương lai, khi khối lượng sản phẩm tăng lên, thì việc chế tạo và tiêu thụ sản phẩm rất cần đến vai trò của HTX. Như vậy, cùng với việc thúc đẩy sự hợp tác thì chuyển hướng hoạt động của các HTX cũ, xây dựng những HTX kiểu mới là một điều vô cùng quan trọng.
Nhà nước Việt Nam đã có cách nhìn đúng đắn, đánh giá đúng về vai trò của HTX. Một trong những chính sách lớn của Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII) là chủ trương, chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn, trong đó đã nhấn mạnh: “phải phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác”. Nghị  quyết 06/ NQ/TW Bộ chính trị về một số vấn đề về phát triển nông nghiệp và nông thôn ngày 10/11/1998 cũng khuyến khích các HTX, các gia đình, các thành phần kinh tế hợp tác trên cơ sở tự nguyện, theo qui định của pháp luật.
Như vậy, cần tránh tư tưởng đề cao vai trò của kinh tế hộ, đánh giá thấp và hoài nghi vị trí của HTX.
Giải quyết tốt vấn đề ruộng đất
Việc giao ruộng đất cho các hộ nông dân sử dụng lâu dài, bên cạnh mặt tích cực cũng không tránh khỏi những hậu quả phản tác dụng thể hiện qua các cuộc tranh chấp ruộng đất diễn ra sau khoán 10 và sự tích tụ ruộng đất chưa hợp lý trong tay một số cá nhân, hộ gia đình ngày đang có chiều hướng gia tăng. Đây cũng là vấn đề vướng mắc nhất trong quan hệ sở hữu ở nông thôn. Hiện nay có tình trạng cùng tồn tại hai chủ trên một mảnh đất: Nhà nước là chủ sản sở hữu có quyền thu thuế, kiểm soát...Nông dân là chủ sử dụng, phải nộp thuế theo qui định, được chuyển nhượng quyền sử dụng. Làm như vậy, ruộng đất chia cho các hộ rất manh mún và phân tán. Mỗi hộ có khoảng 5-7 mảnh ruộng, phân tán ở nhiều nơi, mỗi mảnh chỉ xấp xỉ vài trăm mét vuông, nghĩa là diện tích nhỏ hơn đi 3 lần so với những năm đầu thế kỉ XX, mặc dù hồi đó diện tích ruộng đất của các làng xã đã là quá nhỏ. Đây là một hiện tượng phi kinh tế, làm giảm sản lượng lương thực khá lớn. Theo tính toán của các nhà kinh tế, thì việc chia nhỏ ruộng đất gây thiệt hại rất lớn cho người lao động ở bất cứ khu vực nông nghiệp nào trên thế giới. Chỉ riêng phá bỏ bờ ruộng giữa các mảnh thì đã có thể tăng sản lượng lương thực toàn vùng lên 10%. Hơn nữa, dân số lao động ở nông thôn đã tăng thêm  cùng với việc mất đất xây dựng sẽ làm  cho ruộng đất manh mún và phân tán hơn nữa. Trong khi đó, theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá thì ruộng đất cần phải được tích tụ, tập trung. Đây là một mâu thuẫn nan giải. Để giải quyết vấn đề một cách triệt để, cần coi ruộng đất là yếu tố kinh tế, quyền sở hữu và sử dụng phải được kết hợp chặt chẽ. Có như vậy mới tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá ở nông thôn phát triển.   
Ngoài ra, với quyền hạn được chuyển nhượng ruộng đất, một số ít nông dân tuy được giao ruộng đất nhưng lại cầm cố, nhượng bán vì nhiều lý do. Họ trở lại kiếp làm thuê, làm  mướn cho những nông dân khác. Tỉ lệ nông dân không ruộng trở nên khá cao và ngày càng tăng, trong khi một nhóm nhỏ nông dân tích tụ ngày càng nhiều ruộng đất, vượt xa mức hạn điền mà Luật đất đai 1993 qui định. Đó là kết quả của sự thiếu nhìn xa trông rộng trong lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ Đảng, chính quyền. Tuy Đảng và Nhà nước đã có một số biện pháp hạn chế quá trình nói trên, nhưng mới chỉ hạn chế được tác động tiêu cực chứ chưa ngăn chặn được quá trình đó. Như vậy, việc hướng nỗ lực vào công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là vô cùng cần thiết, tạo điều kiện cho “ai giỏi nghề nào, làm nghề ấy”, làm cho quá trình tích tụ ruộng đất diễn ra một cách hợp lý, theo đúng hướng cần thiết.
Giải quyết vấn đề phân hóa  giầu nghèo theo đà phát triển của kinh tế hộ nông dân
Sau khi kinh tế hộ trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, tính năng động, sáng tạo của người nông dân được tạo điều kiện để phát huy hơn bao giờ hết. Quá trình này đồng thời cũng tạo ra hiện tượng phân hoá giầu nghèo, bởi vì khi người nông dân gắn liền với TLSX, được đảm bảo một cách hợp lý điều kiện sản xuất thì gia đình, cá nhân sẽ cố gắng hết sức mình và thể hiện năng lực phát triển sản xuất, để từ đó được hưởng thụ xứng đáng hơn với sự đóng góp của mình vào kết quả lao động cuối cùng. Đương nhiên, do năng lực cá nhân khác nhau, đầu tư vốn, số lượng nhân lực và trình độ văn hoá ....khác nhau, nên chênh lệch mức thu nhập là tất yếu, dẫn đến sự phân hóa giầu nghèo. Điều đó là khó tránh khỏi trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước không thể để ngoài vòng kiểm soát, vượt quá giới hạn cho phép, làm mất đi sự công bằng xã hội mà Việt Namđang hướng tới.
Trên thực tế, sự phân hoá giầu nghèo trong nông thôn Việt Nam những năm gần đây diễn ra với tốc độ không thể xem  thường. Đảng, Nhà nước cũng đã nhận thấy tính cấp thiết của việc giải quyết vấn đề này và có những bước đi phù hợp, thực hiện những chương trình xoá đói giảm nghèo. Chủ trương xoá đói, giảm nghèo đã được đề cập đến trong Nghị quyết Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam “tiến hành công tác xoá đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân hóa giầu nghèo quá giới hạn cho phép” [18.Tr 217]. Đến Đại hội VIII, xoá đói giảm nghèo chính thức được xác định là Chương trình quốc gia. Tại Đại hội lần thứ IX, một lần nữa Đảng đưa ra những mục tiêu, định hướng cụ thể: “sớm đạt mục tiêu không còn hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo. Tiếp tục tăng nguồn vốn xoá đói, giảm nghèo” [19. Tr. 106]. Các biện pháp cụ thể như vậy nhất định sẽ hạn chế mức chênh lệch về thu nhập giữa các hộ nông dân, đảm bảo sự công bằng xã hội.
KẾT LUẬN
Nhìn lại quá trình đổi mới, dịch chuyển cơ cấu quản lý kinh tế nông nghiệp trong một thời gian dài, bằng hàng loạt các chủ trương, chính sách của Đảng, đặc biệt với Nghị quyết 10, Đảng đã có những giải pháp đồng bộ trên những vấn đề sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và quản lý xã hội ở nông thôn. Nghị quyết đã giải đáp được những vấn đề rất cơ bản cho việc ra đời một nền kinh tế nông nghiệp hàng hoá ở Việt Nam - một điều kiện không thể thiếu được để phát triển kinh tế một cách vững chắc. Nghị quyết 10 đã khẳng định lại vị trí của kinh tế hộ nông dân, đồng thời tạo ra môi trường thuận lợi cho việc dịch chuyển lao động và vốn đầu tư  vào các ngành nghề khác nhau ở nông thôn. Người nông dân từ chỗ được tự chủ một phần (khoán 100), đến tự chủ hoàn toàn trong các khâu sản xuất (khoán 10), từ hoàn toàn tự chủ trong các khâu sản xuất, đến độc lập đầy đủ về kinh tế, từ khẳng định ưu thế của mình trong xác lập hoạt động kinh tế, đến xác lập tư cách pháp lý trong cơ chế sản xuất, kinh doanh mới...là từng bước tạo ra môi trường cần thiết để đưa hộ trở thành hộ sản xuất hàng hoá, dẫn tới hình thành kinh tế trang trại trên qui mô rộng lớn. Việc ra đời của khoán 10 qua thực tiễn của hình thức “khoán gọn” là một bước ngoặt cơ bản trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng. Với cách tiếp cận mới, tư duy từ thực tiễn đã đưa đến sự đổi mới sâu sắc, toàn diện trong toàn bộ cơ chế quản lý nông nghiệp, khẳng định kinh tế hộ nông dân là một đơn vị kinh tế hộ tự chủ. Có thể nhận thấy rằng, từ khi vai trò của kinh tế hộ nông dân được khôi phục trở lại và được đặt trong phương hướng sản xuất hàng hóa đã mở ra khả năng rộng lớn cho việc giải phóng sức lao động trong sản xuất, khai thác hiệu quả các tiềm năng trong nông nghiệp, đưa lại sự phát triển trong sản xuất nông nghiệp.
Sau nghị quyết Trung ương V (khoá VII) “Về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế xã hội nông thôn”, hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô đối với nông nghiệp, nông thôn tiếp tục được hoàn thiện, trong đó vai trò quan trọng nhất là chính sách về ruộng đất, tín dụng, thuế sử dụng đất nông nghiệp, khoa học công nghệ,  khuyến nông, lưu thông nông sản, vật tư nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và phát triển nông thôn... Hệ thống kinh tế vĩ mô nêu trên đều nhằm quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Nó có tác dụng tháo gỡ những cản trở, trì trệ của cơ chế, mở ra hướng phát triển mới cũng như hỗ trợ một cách đắc lực, thúc đẩy và tạo điều kiện cho kinh tế hộ nông dân phát triển.
Việc đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp nói chung và khẳng định vai trò tự chủ của kinh tế hộ nói riêng trong nông nghiệp sở dĩ thành công vì nó là sự kết hợp giữa sự sáng tạo của quần chúng với sự vận dụng hợp qui luật của Đảng. Sự đổi mới nông nghiệp được tiến hành một cách đồng bộ với đổi mới trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội đã tạo đà cho kinh tế hộ nông dân phát triển một cách nhanh chóng, dần chuyển sang cơ cấu hộ sản xuất hàng hoá. Ngoài ra, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã chú trọng khắc phục những mặt tiêu cực nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế hộ như: phân hóa giầu nghèo; phân hóa mức độ sử dụng ruộng đất; vấn đề văn hoá- xã hội trong nông thôn đang xuống cấp... Nhìn chung, công cuộc đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp nói chung và kinh tế hộ nông dân nói riêng vẫn phải tiếp tục được hoàn thiện, nhất là hoàn thiện mô hình kinh tế hộ tự chủ, hạn chế những mặt tiêu cực, nhằm vượt qua giai đoạn sơ khai của kinh tế thị trường.
Công cuộc đổi mới kinh tế trong nông nghiệp nông thôn Việt Nam trên cơ sở xác dịnh kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế hộ tự chủ, tiến hành và điều chỉnh một bước quan hệ sản xuất, ban hành các chính sách kinh tế đã thực sự khơi dậy tiềm năng kinh tế hộ nông dân ở các vùng trong cả nước để phát triển nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay, hộ nông dân là lực lượng sản xuất chủ yếu về các loại nông, lâm, thuỷ sản, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế quốc dân. Thời gian đổi mới kinh tế chưa lâu, nhưng kinh tế hộ nông dân Việt Nam đã có những thành tựu đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào những thành tựu đã đạt được trên mặt trận nông nghiệp, trước hết là giải quyết tốt, giải quyết vững chắc vấn đề lương thực - thực phẩm. Nông nghiệp, nông thôn đang phát triển theo hướng đa dạng hoá, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển theo hướng tiến bộ. Thu nhập đại bộ phận các hộ nông dân tăng lên, đời sống vật chất, văn hoá được cải thiện rõ rệt. Có thể thấy những xu hướng tiến bộ là chủ yếu. Tuy nhiên, kinh tế hộ cho đến thời điểm hiện nay vẫn phổ biến là tự cấp, tự túc với khoảng 70% số hộ thuần nông có sức lao động, nhưng thiếu vốn  để phát triển kinh tế hàng hoá. Do vậy, Nhà nước với tư cách là người quản lý vĩ mô cần có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ (nhất là hộ nông dân sản xuất hàng hoá), bằng cách tạo môi trường kinh tế- xã hội thuận lợi cho kinh tế hộ phát triển.
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Một số văn kiện của Đảng về phát triển nông nghiệp. CTQG. H. 1993.
            2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V. ST. H. 1982. T2.
            3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. ST. H. 1991.
4.Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, BCH TƯ khoá VII. H. 1993.
5.    Trương Thị Tiến: “Đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp ở Việt Nam”. NXB CTQG. H. 1998.
6.    Trương Thị Tiến: “Nghị quyết 10 của Bộ chính trị và thời kì đổi mới tương đối cơ bản cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp”.
7.    Nguyễn Tiến Dũng: “Chuyển dịch cơ cấu lao động để phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay”. T/C “ Kinh tế và phát triển”. Số 22/1-2/98.
8.    Hoàng Việt: “Quan hệ đất đai trong giai đoạn mới”. T/C “ Kinh tế và phát triển”. Số 23/3-4/98.
9.     Nguyễn Thế Nhã: “Phát triển của kinh tế  hộ nông dân- xu hướng tiến bộ và thách thức”. T/C “ Kinh tế và phát triển”. Số 27/11-12/98.
10.  Nguyễn Thế Nhã: “Kinh tế hộ nông dân-chính sách và giải pháp phát triển”. T/C “ Kinh tế và phát triển”. Số 31/7-8/99.
11.  Nguyễn Ngọc Hà: “Một số vấn đề về kinh tế nông hộ”. T/c “ Giáo dục lý luận”. Số 1/2001.
12.  Nguyễn Trọng Tuấn: “Quan hệ giữa kinh tế hộ và kinh tế HTX trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp”. T/c “Nghiên cứu lý luận”. Só 1/1996.
13.  Nguyễn Văn Qui: “ Kinh tế hộ nông dân ở Việt Nam từ năm 54- nay”. T/c “ Lịch sử Đảng”. Số 4/1992.
14.  Đặng Quốc Tiến: “Vai trò quản lý của nhà nước đối với việc phát triển sản xuất của kinh tế hộ nông dân”. T/c “Nhà nước và Pháp luật”. Số 4/1993.
15.  Nguyễn Đức Thịnh: “Hộ hàng hóa- xu hướng phát triển của kinh tế nộng hộ”. T/c “Nghiên cứu kinh tế”. Số 6/1993.
16.  Chu Văn Vũ (chủ biên): “Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam”. KHXH. 1995.
17.  Frankellis: “Kinh tế hộ gia đình nông dân và phát triển nông nghiệp”. NXBNN. 1993.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc  lần thứ VII. Nxb. ST. H. 1992.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc  lần thứ IX. Nxb. CTQG. H. 2001.
 Có thể Dowload tại: Mục Chuyên luận, Trang Web TRI THỨC


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!