Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
I. Yêu cầu khách quan hình thành liên
minh đoàn kết chiến đấu Việt – Lào- Campuchia
trong lịch sử
Bán đảo Đông Dương là nơi gặp gỡ của nhiều
luồng di cư khác nhau, tạo nên sự đa dạng về thành phần tộc người đại diện cho
ngữ hệ Nam Á (gồm các nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, Tày-Thái, Môn-Khơme, Mèo-Dao)
và ngữ hệ Nam Đảo-những ngữ hệ của cư dân bản địa sinh sống lâu đời. Bên cạnh
đó còn có ngữ hệ Hán-Tạng và ngoại kiều gia nhập “đại gia đình Đông Dương”
tương đối muộn và chịu sự chi phối của các tộc người bản địa.
Để cùng chinh phục thiên nhiên, các tộc người
trên toàn Đông Dương đã có sự hợp tác, giúp đỡ, không ngừng mở rộng khu vực địa
lí sinh sống. Khi ba quốc gia hình thành trên bán đảo Đông Dương, quan hệ này
giữa nhân dân ba nước vẫn tiếp tục phát triển, mà biểu hiện rõ nét nhất là nhân
dân Việt Nam ở Đàng Trong cùng với nhân dân Khơme chung sức khai thác vùng châu
thổ hạ lưu sông Mê Kông, hình thành một vùng kinh tế mới.
Trên thực tế, nhiều tộc người ở cả Việt Nam,
Lào, Campuchia có chung một nguồn gốc, trải qua những vận động, biến đổi của
lịch sử, bị phân tách và định cư trên các vùng đất khác nhau. Đầu thế kỷ XX,
khi thực dân Pháp xâm lược và thành lập Liên bang Đông Dương, nhiều tộc người
trên bán đảo Đông Dương (nhất là vùng biên giới) vẫn sống theo hình thức du
canh, du cư và không có sự phân biệt về biên giới quốc gia. Sự giao lưu, giúp
đỡ lẫn nhau trong quá trình chinh phục thiên nhiên, mở rộng địa bàn cư trú đã
tạo nên tình cảm thân thiện giữa nhân dân ba nước.
Do nằm gọn trong vành đai nhiệt đới bắc bán
cầu, có hoàn lưu gió mùa, điều kiện đất đai màu mỡ và nguồn nước thuận lợi, nên
từ rất sớm, trên bán đảo Đông Dương đã xuất hiện nhiều nền văn minh rực rỡ, kết
hợp với quá trình tiếp xúc, giao thoa văn hóa với hai nền văn minh lớn (Ấn Độ,
Trung Hoa), tạo nên nền văn hóa đa dạng. Mặc dù mỗi dân tộc, mỗi quốc gia hình
thành nên nền văn minh với những bản sắc riêng, nhưng nhìn chung, do môi trường
tự nhiên tương đối đồng nhất, nên cơ tầng văn hóa nông nghiệp trồng lúa là yếu
tố chính quy định sinh hoạt, văn hóa của các cư dân trên bán đảo. Điều đó giải
thích vì sao cho đến tận ngày nay, giữa ba nước Đông Dương có nhiều yếu tố văn
hóa- xã hội tương đồng, mang tính bản địa như tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tục
thờ cúng, tư duy biện chứng nguyên thủy, các tập tục và sinh hoạt văn hóa dân
gian đi kèm hội mùa nông nghiệp, sự xuất hiện rộng khắp loại hình nhà sàn, vai
trò của phụ nữ và người già trong đời sống xã hội, tục ăn trầu và hình ảnh trầu
cau từ xa xưa đã đi vào kho tàng văn học dân gian của các dân tộc Đông Dương
như một biểu tượng của tình yêu đôi lứa, tình cảm cộng đồng... Đó chính là “mẫu
số chung” về văn hóa của cư dân Đông Dương, tạo nên sự gần gũi, giao hòa giữa
nhân dân ba nước.
Ba
nước Việt Nam, Lào, Campuchia có nhiều nét tương đồng về điều kiện tự nhiên và
về lịch sử - văn hoá. Đây là ba quốc gia hợp thành một đơn vị địa lý thống
nhất: Bán đảo Đông Dương[1],
trong đó mỗi quốc gia đều có chung đường biên giới với hai nước còn lại[2].
Từ mỗi nước đều có thể dễ dàng đi theo đường bộ (qua các cửa khẩu) hoặc đi theo
đường thủy (các con sông lớn) để đến hai nước khác. Vì có mối quan hệ chặt chẽ
về vị trí địa lí, nên nếu một trong ba quốc gia bị xâm lược, bị mất độc lập,
sớm muộn hai quốc gia còn lại cũng sẽ bị thôn tính. Thực tế lịch sử đã chứng
minh điều đó: Trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, từ thực dân Pháp đến
đế quốc Mỹ đều tiến hành chiến tranh xâm lược từng nước rồi đến cả ba nước[3],
coi bán đảo Đông Dương là một chỉnh thể trong các kế hoạch chiến tranh. Điều đó
cho thấy, trước hết, quan hệ về vị trí
địa lí là một trong những yếu tố định hướng quan trọng hình thành mối quan
hệ đoàn kết ba nước.
Đông Dương là khu vực có vị trí chiến lược rất quan trọng (bao
lơn nhô ra biển Đông, tiếp giáp với các tuyến hàng hải quốc tế giữa Ấn Độ Dương
và Thái Bình Dương, là cầu nối giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo,
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú...), nên từ rất sớm, Đông Dương đã trở
thành đối tượng nhòm ngó, xâm lược của nhiều thế lực khác nhau. Chống lại ách
áp bức, chống lại sự nô dịch dân tộc trở thành một trong những nét chủ đạo
trong các phong trào đấu tranh của nhân dân mỗi nước trong suốt trường kỳ lịch
sử. Đó cũng là yếu tố tự nhiên tạo nên sự gắn bó, ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau giữa
các dân tộc[4].
Từ khi bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị, mối quan hệ giữa nhân
dân ba nước càng trở nên mật thiết. Phục vụ cho chính sách cai trị, khai thác
nguồn tài nguyên khắp lãnh thổ Đông Dương, thực dân Pháp cưỡng bức nhiều trí
thức lao động người Việt Nam sang Lào, Campuchia tham gia vào bộ máy cai trị
hay làm việc trong các đồn điền, hầm mỏ. Nhiều thế hệ người Việt Nam đã gắn bó
chặt chẽ với cộng đồng người bản xứ. Cùng với
việc bóc lột thuộc địa, thực dân Pháp xây dựng quan hệ buôn bán giữa các khu
vực, xây dựng nhiều tuyến đường xuyên Đông Dương tạo ra sự giao lưu nhất định
giữa nhân dân ba nước, tăng cường mối quan hệ vốn có trong lịch sử[5].
Xu
hướng liên kết đấu tranh của nhân dân ba nước thực
hiện mục tiêu giành độc lập dân tộc ngày càng được tăng cường. Nhiều cuộc đấu
tranh, nhiều phong trào khởi nghĩa chống thực dân Pháp có sự tham gia, ủng hộ,
phối hợp giúp đỡ lẫn nhau của nhân dân ba nước[6].
Dù sự phối hợp, quan hệ đấu tranh của nhân dân ba nước chưa được chưa ý thức một cách tự giác và đầy đủ trong hoàn cảnh mới, song đây là tiền
đề quan trọng cho liên
minh đoàn kết chiến đấu chặt chẽ của nhân dân ba nước những năm tháng sau. Có thể khẳng định rằng, những điều
kiện tương đồng, gần gũi về lịch sử - văn hóa, sự gắn bó chặt chẽ về phương diện
địa - chính trị cùng sự giao lưu, ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân ba nước
Đông Dương trong những dặm dài lịch sử trước đây là những tiền đề thuận lợi cho
liên minh đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời[7] dù
chưa đủ sức lãnh đạo toàn bộ hoạt động đấu tranh theo xu hướng vô sản trên toàn
cõi Đông Dương, song là yếu tố thuận lợi mới cho
liên minh đoàn kết chiến đấu của nhân
dân Đông Dương ra đời. Đây cũng là tiền đề mở ra bước
ngoặt trong quan hệ đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương. Trước đây, tuy nhân dân ba nước có sự ủng
hộ, giúp đỡ lẫn nhau về địa bàn chiến đấu,
vật chất, trang bị... nhưng đó chưa phải là liên minh đoàn kết có ý thức, tự giác, do chưa
có chủ trương, đường lối chiến lược chung. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, “tình
đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước không chỉ còn đóng khung trong tình
đoàn kết giữa các dân tộc láng giềng với nhau nữa, mà đã mang nội dung giai cấp
của tình đoàn kết chiến đấu rộng lớn hơn giữa giai cấp vô sản và các dân tộc bị
áp bức trên toàn thế giới”[8]. Ngay sau khi thành lập, BCH Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương giao cho tổ chức Cộng sản các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ
trách nhiệm giúp đỡ xây dựng cơ sở cách mạng, xây dựng chi bộ Đảng ở Campuchia
và Lào. Đảng Cộng sản Đông Dương “đã đưa phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân ba nước vào trào lưu chung của cách mạng vô sản thế
giới, do đó mà thực hiện được sự đoàn kết quốc tế rộng rãi nhất, triệt để nhất”[9], trở thành người tổ chức, lãnh đạo
nhân dân nhân dân ba nước đấu tranh giành độc
lập. Nhiều cán bộ, chiến sĩ, đảng viên Việt Nam được điều động sang hoạt động ở
Lào, Campuchia nhằm xây dựng các tổ chức Đảng, khắc phục sự không đồng đều và
làm cho phong trào cách mạng Đông Dương thêm gắn bó.
II. Quá trình hình thành, phát triển quan hệ đoàn kết chiến đấu Việt – Lào- Campuchia
chống thực dân Pháp
Năm 1945, thắng lợi của các lực lượng
chống phát xít đã mở ra thời kỳ mới trong sự nghiệp giải phóng của các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc, nhất là những nước trong khu vực châu Á, châu Phi, châu
Mỹ latinh, tạo điều kiện cho nhân dân Đông Dương đứng
lên đấu tranh lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Tuy
nhiên, không bao lâu sau, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Đông Dương, ngày
23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp dựa vào quân Anh nổ súng tiến công Sài Gòn, mở
đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam một
lần nữa. Chính phủ Pháp gấp rút tổ chức các
đạo quân viễn chinh đưa sang Đông Dương, đánh chiếm các cứ điểm trên các trục
đường chính, các thị xã như Xaravan, Pắc Xế, các tỉnh Trung và Thượng Lào,… Tháng
9 năm 1945, tổ chức cách mạng Lào Ítxala và Việt kiều yêu nước nhất trí thành
lập đội quân mang tên “Liên quân Lào - Việt” đặt dưới sự chỉ huy của một Bộ
tham mưu chung. Sau khi thành lập “Liên quân Lào - Việt”, các “Ủy ban phòng thủ
chung Lào - Việt” ở các địa phương cũng hình thành[10].
Tuy mới được thành lập, lại gặp nhiều khó khăn về tổ chức huấn luyện, trang
bị, nhưng các chiến sĩ trong “Liên quân Lào - Việt” đã chiến đấu rất dũng cảm,
gây cho quân xâm lược nhiều khó khăn, thiệt hại trong các trận đánh lớn ở Nho
Ma Rát, Phôn Tịu, Hin Bun, Lang Kôc, Xong Khon, Đồng Hến, Thà Đa, Ylay, Na
Khà, Bản Cơn. Ngày 16 tháng 10 năm 1945, tại Viêng Chăn (Lào), theo thảo thuận,
ông Khăm Mạo Pha-nha, Thủ tướng Chính phủ độc lập lâm thời Lào Ít-xa-la và ông
Trần Đức Vịnh - phái viên của Chính phủ VNDCCH
đã ký Hiệp định “Tương trợ Lào-Việt”
giữa hai nước Lào và Việt Nam, thỏa thuận giữa hai nước sẽ hợp tác giúp đỡ
nhau về mọi mặt, nhất là trên lĩnh vực quân sự, cùng nhau tiến hành cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho mỗi nước, mỗi dân tộc[11].
Hiệp định “Tương trợ Lào-Việt” là văn kiện ngoại giao chính thức đầu tiên của
Nhà nước VNDCCH, cũng là văn kiện ngoại giao
chính thức đầu tiên của nước Lào, là cơ sở pháp lý đầu tiên để Chính phủ và
nhân dân hai nước Lào, Việt Nam giúp đỡ nhau trong sự nghiệp đấu tranh chống
kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược và bảo vệ nền độc lập của mỗi nước. Theo yêu cầu của cuộc kháng chiến ở Lào, ngay từ đầu năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương
đã cử một số cán bộ, chiến sĩ Việt Nam sang giúp đỡ, phối hợp với nhân dân Lào
xây dựng lực lượng kháng chiến, xây dựng căn cứ cách mạng dọc vùng biên
giới Việt Nam – Lào.
Tháng 10 năm 1945, thực dân Pháp đưa quân từ Sài Gòn lên
chiếm đóng vùng Đông Bắc Campuchia, hòng tạo bàn đạp đánh chiếm vùng Hạ
Lào và phối hợp với cánh quân trên đường số 14 đánh chiếm Tây Nguyên. Trước
tình hình thực dân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược ra các nước Đông Dương,
ngày 25 tháng 11 năm 1945, BCH Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị
"Kháng chiến kiến quốc",
trong đó chủ trương thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào, thành lập Bộ Tư lệnh
Lào - Miên (10-1946). Thực hiện chủ trương đó, Việt Nam đã giúp Lào, Campuchia
phát động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp. Theo tinh thần Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc", Liên quân
Lào – Việt đã được tổ chức ở nhiều nơi để chiến đấu ngăn chặn Pháp tấn công;
đồng thời, điều động các đơn vị bộ đội địa phương (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị) lên hoạt động tại vùng giáp biên giới Việt – Lào; xây dựng lực
lượng ở các thành phố, thị xã ở Lào[12].
Ban Chỉ huy liên quân Lào – Việt còn mở các lớp huấn luyện quân sự cho dân quân
tự vệ, các lớp bồi dưỡng ngắn ngày cho cán bộ trung đội, tiểu đội. Đầu năm
1946, Việt Nam phối hợp, giúp đỡ quân dân Lào chiến đấu bảo vệ các thành phố,
thị trấn như Viêng Chăn, Khăm Cợt, Na Pê, đường 9, Bản Cơn..., làm thất bại một
bước kế hoạch tấn công lấn chiếm của địch, buộc quân đội Pháp phải co về phòng
thủ, giữ các địa bàn đang chiếm đóng. Từ tháng 6-1946, Xứ uỷ Ai Lao và
Tổng hội Việt kiều chủ trương chuyển lực lượng về vùng nông thôn và miền núi,
xây dựng cơ sở kháng chiến lâu dài. Lực lượng kháng chiến Lào đã bám dân, tiến
hành công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở chính trị và lực lượng vũ
trang quần chúng, phát động chiến tranh du kích, chuẩn bị điều kiện để tiến
hành cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược. Đến cuối năm 1946, liên
quân Lào – Việt rút sang tả ngạn sông Mê Công và trở lại hoạt động tại vùng
biên giới phía Tây sau khi Việt Nam bắt đầu cuộc kháng chiến toàn quốc.
Đầu
năm 1946, được sự giúp đỡ của lực lượng kháng chiến Việt kiều, một số nhân sĩ
Campuchia tạm lánh sang Thái Lan đã thành lập "Ủy ban dân tộc giải phóng
Khơme"[13]. Từ năm
1947 trở đi, những người yêu nước Campuchia liên hệ mật thiết với lực lượng
kháng chiến ở Nam Bộ (Việt Nam), thành lập các khu kháng chiến ở các vùng Đông
Nam (1947), Đông Bắc, Tây Nam (1948). Từ những căn cứ kháng chiến này, quan hệ
đoàn kết chống thực dân Pháp giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia ngày
càng được tăng cường và phát triển.
Thực
hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương về tăng cường phối hợp, đẩy mạnh
kháng chiến, các khu 7, 8, 9 và Liên khu 5 điều động các đội vũ trang tuyên
truyền và cán bộ lần lượt sang hoạt động, gây cơ sở ở nhiều vùng căn cứ của
Campuchia. Ở Lào, tháng 1 năm 1947, Xứ ủy Ai Lao quyết định thành lập 5 Quân
khu Tây Lào[14], thành lập đơn vị vũ trang mang tên Koong Phạ Ngừm,
có nhiệm vụ hoạt động vũ trang tuyên truyền, khơi dậy truyền thống yêu nước,
căm thù giặc, vận động nhân dân ủng hộ kháng chiến, đưa con em gia nhập bộ đội
Lào Ít-xa-la, tranh thủ hoạt động du kích,
đánh tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, phối hợp với các đơn vị Việt kiều Giải
phóng quân đang hoạt động trong vùng. Trong những năm 1948-1950, hoạt động phối
hợp giữa Việt Nam- Lào ngày càng chặt chẽ: Liên quân Lào - Việt chặn đánh địch
ở biên giới Lào- Việt, hoạt động ở Mường Ngan (Xiêng Khoảng, Lào); tháng 1 năm
1948, Chính phủ VNDCCH giao nhiệm vụ cho Liên
khu 5 cử cán bộ và lực lượng vũ trang sang
giúp xây dựng khu kháng chiến Hạ Lào; tháng 5-1948, quyết định thành lập Ban
Cán sự Hải ngoại giúp Lào xây dựng phong trào kháng chiến; tháng 3-1949,
thành lập Khu kháng chiến Hạ Lào…
Cũng trong những năm
1948-1950, Khu 8 (Việt Nam) phái một đơn vị thuộc Trung đoàn 115 sang vùng Đông
Nam Campuchia tổ chức đường liên lạc nối liền vùng giải phóng các tỉnh
Prâyveng, Kanđan với vùng giải phóng hai tỉnh Tàkeo và Svâyriêng ở vùng Đông
Bắc. Tháng 10 năm 1948, Khu 7 cử một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 305 sáp nhập
với đơn vị Ítxarắc (tỉnh Svâyriêng) và một đại đội thuộc Trung đoàn 311 thành
một đơn vị hỗn hợp Khơme - Việt Nam, mang tên Bộ đội Sivôtha, với khoảng 600
cán bộ, chiến sĩ. Ở vùng Tây Nam Campuchia, Khu 9 cũng lần lượt cử một số đơn
vị phối hợp xây dựng những đơn vị hỗn hợp
Miên - Việt như hai đơn vị 302, 305 hoạt động ở tỉnh Campốt, đơn vị 632 ở tỉnh
Tàkeo. Năm 1949, Khu 9 điều Trung đoàn 131 sang khu căn cứ vùng Tây Nam,
giúp cách mạng Campuchia. Tháng 3 năm 1950, Trung ương Cục miền Nam quyết định
thành lập Ban cán sự toàn Miên Cuối năm 1950, Liên khu 5 đưa đội vũ trang tuyên
truyền thứ ba sang tăng cường hoạt động ở vùng Đông Bắc Stung Treng…. Nhờ vậy,
phong trào kháng chiến của Campuchia từng bước phát triển, cơ sở mở rộng xuống
các vùng đồng bằng đông dân.
Tháng 2 năm 1951, Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương ra nghị quyết
về các vấn đề quan trọng của cách mạng ba nước Đông Dương, xác định sẽ thành
lập ở mỗi nước một chính đảng cách mạng
riêng[15], phù hợp với hoàn cảnh từng nước để lãnh đạo nhân
dân đấu tranh giành thắng lợi. Tháng 3 năm 1951, Mặt trận Liên Việt, Mặt
trận Khơme yêu nước (Ítxarắc), Mặt trận Lào tự do họp, quyết định thành lập
"Khối liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào" dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng và tương trợ, giúp đỡ nhau kháng chiến chống thực dân Pháp
cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn. Ngày 19 tháng 6 năm 1951, các lực lượng vũ
trang cách mạng Campuchia được thống nhất với tên gọi Quân đội giải phóng
Ítxarắc; tiếp đó, ngày 28 tháng 6 năm 1951, Việt Nam giúp Campuchia thành lập
Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia (lúc đầu mang tên là Đảng Nhân dân Khơme)[16].
Theo yêu cầu của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, từ năm 1951, Việt Nam giúp
Campuchia tổ chức Mặt trận Ítxarắc, từng bước xây dựng, mở rộng cơ sở ở nhiều
nơi, xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập Chính phủ kháng chiến lâm thời.
Trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp (1951-1954), Việt Nam đưa quân
tình nguyện sang giúp Campuchia kháng chiến. Quân đội giải phóng Ítxarắc đã kề
vai sát cánh cùng với Quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu chống kẻ thù chung.
Đầu năm 1954, BCH Trung ương Đảng Campuchia và BCH Trung ương ĐLĐVN chủ trương
đẩy mạnh tác chiến ở vùng Đông Bắc Campuchia, phối hợp với các chiến trường, nhất là chiến
trường Tây Bắc Việt Nam và chiến trường Thượng Lào. Những ngày đầu tháng 4 năm
1954, Trung đoàn 101 (Đại đoàn bộ binh 325) cùng với đại đội 200 Quân tình
nguyện Việt Nam ở Hạ Lào tiến xuống phối hợp với các lực lượng vũ trang ở vùng
Đông Bắc Campuchia, mở cuộc tiến công, giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn
và một số thị xã (gồm 1/2 diện tích và 1/6
số dân cả nước Campuchia), góp phần đánh bại chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp.
Tháng 4-1951, Trung ương ĐLĐVN quyết định
thành lập Ban cán sự Đảng ở Mặt trận Thượng Lào; các Ban cán sự ở Trung và Hạ
Lào cũng được bổ sung, kiện toàn. Trong năm 1951, Chính phủ Việt Nam đã đẩy
mạnh chi viện quân sự cho các chiến trường Lào, lực lượng cán bộ và bộ đội tăng
lên 12000 quân gồm Thượng Lào hơn 6000 quân, Trung Lào hơn 3000 quân và Hạ Lào
hơn 2000 quân. Tháng 2-1953 Chính phủ nước VNDCCH và Chính phủ kháng chiến Lào
quyết định phối hợp mở chiến dịch Thượng Lào, giải phóng tỉnh Sầm Nưa. Đầu năm
1954, liên quân Lào – Việt bất ngờ tiến đánh phòng tuyến địch ở dọc sông Nậm U,
Mương Xài đến Luông Pha băng, đập tan phòng tuyến sông Nậm U của địch, giải phóng
toàn tỉnh Phong Xa Lỳ. Cuối tháng 1-1954, liên quân Lào – Việt tấn công chiếm
và cắt đường 9, tràn xuống Hạ Lào, giải phóng Áttôpư và cao nguyên Bôlôven.
Như vậy, những thắng lợi trên mặt trận quân
sự đã tạo bàn đạp để Việt Nam, Campuchia
và Lào giành thắng lợi trên mặt trận ngoại giao buộc Pháp phải ký Hiệp
định Geneve, kết thúc thắng lợi một giai đoạn quan trọng trong lịch sử hợp tác
chiến đấu dành và giữ độc lập của nhân dân ba nước Đông Dương, Pháp rút toàn bộ
quân đội ra khỏi Đông Dương. Tuy nhiên, các giải pháp do Liên Xô, Trung Quốc phối hợp với Anh,
Pháp đề xuất và đi đến ký kết tại Hội nghị Geneve phản ánh xu thế chung, quan hệ giữa các nước lớn
trong tình hình quốc tế vào thời điểm đó. Là kết quả của một cuộc hoà giải
không vững chắc, có mục tiêu chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Đông Dương, nhưng Hiệp định Geneve đã không bịt được kẽ hở tạo khả năng cho Mỹ vào Đông
Dương. Đông Dương đứng trên bờ vực của một cuộc chiến tranh
mới.
Download toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC
[1]
Việt Nam nằm ở phía đông, Lào nằm ở phía tây, Campuchia nằm ở phía tây nam. Diện tích khoảng 750.000 km2,
dân số (1954) khoảng 45 triệu người. Phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Thái Lan, Mianma; các
mặt đông, đông nam và tây nam bao bọc bởi biển Đông.
[2] Việt Nam
và Lào có chung đường biên giới đất liền 2.130km, Việt Nam và
Campuchia có chung đường biên giới đất liền 1.228km, Campuchia và Lào có chung
đường biên giới đất liền 535km.
[3] Tổng kết cuộc chiến tranh của Mỹ ở
Việt Nam (1954-1975), Bộ Quốc phòng Mỹ thừa nhận đối thủ của họ đã khai thác
rất tốt mối quan hệ chặt chẽ về vị trí địa lý ba nước Đông Dương và khẳng định:
“Địa lí và khí hậu ở Đông Dương thích hợp với cuộc chiến tranh nhân dân hơn là
với các chiến dịch quân sự thông thường và đúng ra phải được đếm xỉa đến hơn
trong lúc ban đầu xây dựng cơ cấu và huấn luyện quân sự Việt Nam cộng hòa...
Địa lí chính trị đã tạo ưu thế chiến lược cho Việt Nam dân chủ cộng hòa vì đã
cho họ sử dụng có hiệu quả các vùng đất thánh ở Lào và Campuchia, khiến họ có
thể hạn chế thiệt hại và tàng trữ những số lượng lớn vật liệu chiến tranh”
(Nguồn: Tóm tắt tổng kết chiến tranh Việt
Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, Tập 2 - Nam
Việt Nam, Thư viện Quân đội Trung ương sao lục, 1982, tr. 22-23).
[4] Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đầu thế
kỷ XV, Lê Lợi từng “nhờ” đất Ai Lao (Lào) làm chỗ đứng chân buổi ban đầu; triều
Tây Sơn có mối quan hệ thông hiếu với triều đình Viêng Chăn, tiếp đó giúp một
số bộ tộc Lào đánh đuổi quân xâm lược Xiêm (Thái Lan); các chúa Nguyễn ở Đàng
Trong từng giúp đỡ nhân dân Campuchia chống xâm lược Xiêm.
[5] Trao đổi hàng hóa thương mại trong
nội bộ giữa ba nước Đông Dương có sự phát triển đa dạng. Nền kinh tế cả ba nước
chủ yếu là nông nghiệp có tính bổ sung cho nhau và có khuynh hướng chuyên môn
hóa rõ rệt. Đến năm 1954, Campuchia đứng hàng thứ ba trong số các nước cung cấp
hàng hóa cho Việt Nam
(đứng sau Pháp và Hoa Kỳ).
[6] Tiêu biểu như sự phối hợp giữa nghĩa
quân A-cha Soa với nghĩa quân của Đề đốc Huân trên địa bàn Châu Đốc, Vĩnh Long,
Đồng Tháp Mười (1962); liên quân chiến đấu giữa nghĩa binh Pô-kum-bô và nghĩa
quân của Trương Quyền, Võ Duy Dương tại các vùng dọc biên giới hai nước Việt
Nam - Campuchia (1866); sự phối hợp giữa quân lính (bị thực dân Pháp cưỡng bức)
Việt - Lào chống Pháp tại hai vùng Bô-lô-ven và Tây Nguyên (1901); sự đùm bọc,
giúp đỡ của nhân dân các bộ tộc Lào đối với các nghĩa binh, sỹ phu trong phong
trào Cần Vương (1885-1896)...
[7] Tháng 10/1930, đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương (theo chỉ thị của Quốc tế Cộng
sản III).
[8] Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam -
Viện Đông Nam Á (1983), Những vấn đề lịch
sử - văn hóa Đông Nam Á - Về lịch sử - văn hóa ba nước Đông Dương, Viện
Đông Nam Á xuất bản, Hà Nội, tr.64.
[9]
Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam
- Viện Đông Nam Á (1983), Những vấn đề
lịch sử - văn hóa Đông Nam Á - Về lịch sử - văn hóa ba nước Đông Dương,
Sđd, tr.64.
[10] Ngô Quốc Tuấn
(2005), "Hồ Chí Minh người đặt nền móng cho quan hệ Việt – Lào", Tạp chí Lịch sử quân sự, số 1, tr.83.
[12] Viêng Chăn
tập hợp được hơn 600 người tổ chức thành 4 đại đội chiến đấu gồm 3 đại đội Việt
kiều và một đại đội Lào Ítxalạ. Xavẳnnakhệt tập hợp được hơn 200 quân tổ chức
thành hai đại đội chiến đấu của Lào Ítxalạ và Việt kiều giải phóng quân. Thà
Khẹc tập hợp được hơn 800 quân tổ chức thành 4 đại đội chiến đấu gồm 2 đại đội
Lào Ítxalạ và 2 đại đội Việt kiều giải phóng quân.
[13] Tuy nhiên, do thành phần trong ủy ban
có những phần tử phức tạp, gây chia rẽ, đến năm 1949, Ủy ban này tan rã. Một bộ
phận tiên tiến trong "Ủy ban dân tộc giải phóng Khơme" đã kịp thời
tách ra khỏi ủy ban này và tổ chức các cơ sở cách mạng trong nhân dân, xây dựng
các khu căn cứ ở vùng Pailin, Báttambang. Một bộ phận khác tổ chức các nhóm vũ trang hoạt động trong các phum, sóc ở tỉnh
Báttambang, miền Đông và miền Nam Campuchia.
[14] Quân
khu I gồm địa bàn hoạt động ở tỉnh Viêng Chăn; Quân khu II gồm địa bàn hoạt
động tỉnh Khăm Muộn; Quân khu III gồm địa bàn hoạt động ở tỉnh Xa Vẳn Na Khệt;
Quân khu IV gồm địa bàn hoạt động ở các tỉnh Hạ Lào và Quân khu V là Đặc khu Thượng
Lào.
[15] Đảng Cộng sản Đông Dương tách ra
thành ba đảng: Đảng Lao động Việt Nam; Đảng Nhân dân cách mạng
Campuchia (thành lập ngày 28-6-1951), Đảng Nhân dân Lào (thành lập ngày
22-3-1955).
[16] Đại hội lần thứ IV Đảng Nhân dân cách
mạng Campuchia, diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 5 năm 1981, đã quyết định
lấy ngày 28 tháng 6 là ngày thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!