Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

VIỆT NAM – LÀO – CAMPUCHIA ĐOÀN KẾT ĐẤU TRANH THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH GENEVE (1954-1960)



Ngay sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương, chính sách của Mỹ ở Lào và Nam Việt Nam, Campuchia là chính sách can thiệp và xâm lược dưới những hình thức và thủ đoạn khác nhau. Sau Hiệp định Geneve, lực lượng kháng chiến Lào tập kết về hai tỉnh Hủa-phăn (căn cứ Sầm Nưa) và Phong-xa-lỳ[1]. Chính quyền Viêng Chăn vẫn giành quyền kiểm soát đại bộ phận lãnh thổ Lào (10 tỉnh). Thực hiện âm mưu tiêu diệt lực lượng kháng chiến Lào, Mỹ ồ ạt viện trợ kinh tế, quân sự[2] cho chính quyền, quân đội Viêng Chăn[3], từng bước chi phối mọi mặt ở Lào. Trong Hội nghị Geneve về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương (1954), do tương quan lực lượng và do ý đồ của một số cường quốc muốn hạn chế thắng lợi của cách mạng Đông Dương nên lực lượng kháng chiến Campuchia không có vùng tập kết buộc phải giải tán, sống hoà nhập vào cộng đồng xã hội. Hiệp định Geneve công nhận chính phủ Vương quốc Campuchia là chính phủ hợp pháp của Campuchia, do Quốc vương Nôrôđôm Xihanúc[4] đứng đầu.

Thi hành Hiệp định Geneve và Hiệp định đình chiến ở Lào, ngày 23.7.1954, Bộ Quốc phòng và Chính phủ kháng chiến Lào ra lệnh thực hiện Hiệp định đình chiến trên toàn chiến trường Lào. Theo tinh thần đó, các lực lượng quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang Lào Ítxala khẩn trương chuẩn bị về mọi mặt, chuyển trọng tâm hoạt động phù hợp với tình hình cách mạng trong giai đoạn mới. Theo yêu cầu của Lào, Ban cán sự và Ban chỉ huy quân tình nguyện các khu, tỉnh của Việt Nam đã giúp Lào và cùng với Lào tuyên truyền về thắng lợi của Hiệp nghị đình chiến; đồng thời quán triệt tình hình nhiệm vụ mới cho cán bộ Việt-Lào cấp tỉnh, huyện.
Nhận địnhviệc thi hành hiệp định đình chiến là việc mới, là một cuộc đấu tranh gay go với địch”[5],  ngày 23-7-1954, Việt Nam cử một số cán bộ tham gia Uỷ ban Liên hiệp đình chiến ở Lào. Cùng với cán bộ Lào, cán bộ Việt Nam giải thích về thắng lợi Hiệp nghị Giơ-ne-vơ và nội dung Hiệp định đình chiến trên chiến trường Đông Dương và Lào; đồng thời phổ biến tình hình nhiệm vụ mới, động viên bộ đội tình nguyện, bộ đội Lào Ítxala cùng nhân dân đoàn kết đấu tranh đòi đối phương thi hành nghiêm chỉnh những điều đã ký kết. Campuchia, ngày 24 tháng 7 năm 1954, Bộ Tổng tư lệnh quân giải phóng Khơme Ítxarắc và của Bộ Tư lệnh Bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Khơme ra Nhật lệnh nêu rõ: “Chúng ta phải đấu tranh để hoàn thành cho kỳ được nền độc lập, đòi quân đội ngoại quốc rút khỏi lãnh thổ của Khơme. Chúng ta phải tiếp tục đấu tranh để bảo vệ quyền tự do dân chủ, thực hiện tổng tuyển cử và thực hiện thống nhất quốc gia”.
Nhằm phát huy thắng lợi của Hiệp định Geneve, Ban Bí thư Trung ương ĐLĐVN ra Chỉ thị “Tuyên truyền về những Hiệp định của Hội nghị Giơnevơ" (27.7.1953), nêu rõ: Hội nghị Geneve kết thúc ngày 21-7-1954 đã đi đến những hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Lào, Khơme và nước Pháp phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của ba dân tộc ở Đông Dương. Đó là thắng lợi của nhân dân Việt Nam, Lào, Khơme và là một thất bại của đế quốc Mỹ. Chỉ thị ngày 27.7.1953 khẳng định: Cuộc đấu tranh ái quốc của dân tộc Việt Nam cũng như  của  Khơme,  Pathét Lào đã tiến lên được một bước; Hội nghị Geneve là một thắng lợi tất yếu của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia; tuy nhiên, cần đề phòng mọi âm mưu phá hoại hoà bình, xâm phạm hiệp định.
Thực hiện Chỉ thị, đầu tháng 8.1954, Đoàn 83 quân Tình nguyện Việt Nam tổ chức tuyên truyền về thắng lợi của Hiệp nghị Geneve, động viên và tổ chức lực lượng Pathét Lào tập kết ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phong Sa Lỳ. Thời điểm này, nhân dân các bộ tộc Lào chưa có đài để nghe, tin tức chủ yếu vẫn do truyền miệng. Trước tình hình đó, Ban chỉ huy Đoàn 83 tổ chức các lớp ngắn ngày (1 hoặc 2 ngày) cho cán bộ  Lào-Việt cấp tỉnh. Sau đó, cử nhiều cán bộ, chiến sĩ cùng với phía Lào toả xuống các địa phương tập hợp các đơn vị và nhân dân trong từng làng bản, tuyên truyền: thực dân Pháp đã thua phải rút quân về nước. Ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia được quốc tế công nhận về nền độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước. Lực lượng Lào Ítxala có hai tỉnh tập kết và Pathét Lào đại diện đàm phán với Chính phủ vương quốc Lào về một giải pháp chính trị, tiến tới thống nhất đất nước bằng tổng tuyển cử tự do. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh đòi đối phương nghiêm chỉnh thi hành Hiệp nghị Geneve để thực hiện hoà hợp dân tộc, thống nhất đất nước là rất phức tạp, gay gắt, quyết liệt, bởi đế quốc Mỹ không ký Hiệp nghị Geneve và đang cùng bọn tay sai tìm mọi cách phá hoại Hiệp nghị. Ở các vùng căn cứ kháng chiến Lào, khí thế cách mạng của quần chúng rất cao. Nhân dân làng xã tham gia các cuộc mít tinh, liên hoan ca múa lăm vông, nghe cán bộ Lào và bộ đội Việt Nam nói chuyện. Ở các vùng đồng bằng, sát đồn địch, cán bộ, chiến sĩ Việt Nam cùng với bộ đội Lào đến tuyên truyền cho nhân dân biết. Tại các huyện Tu la Khôm, Phôn Hùng, Vang Viêng, bộ đội Việt Nam liên hệ thẳng với tri huyện (chao Mường tổ chức các cuộc nói chuyện, yêu cầu đối phương cam kết, tuyên bố ngừng các cuộc hành quân, tuần tiễu vào vùng căn cứ kháng chiến, chấm dứt các hành động khủng bố, bắt bớ, cướp bóc nhân dân.
Đối với Campuchia, ngày 11 tháng 8 năm 1954, Trung ương Cục miền Nam gửi Ban cán sự toàn Miên, đồng điện Ban Cán sự Tây Nam Miên chỉ thị: Cần làm cho cán bộ, bộ đội, nhân dân Khơme, cán bộ, bộ đội Việt Nam công tác tại Khơme, thông suốt tình hình và nhiệm vụ mới, nhận rõ thắng lợi của việc ký kết đình chiến; đồng thời, cần có kế hoạch giải thích chu đáo, theo dõi, lãnh đạo tư tưởng của cán bộ chặt chẽ, thích hợp với hai đối tượng khác nhau: Khơme và Việt Nam[6]. Bức điện chỉ đạo: Nhiệm vụ võ trang chiến đấu này chuyển qua đấu tranh chính trị, các chiến sĩ cầm súng nay trở thành những cán bộ chính trị[7]. Ngày 20.8.1954, Hội nghị thành lập Ủy ban liên hợp đình chiến ở Campuchia khai mạc. Việc thành lập Ủy ban Liên hiệp đình chiến hôm nay là tiếp tục phát triển những thắng lợi đó theo tình hình tại nước Cao Miên. Ủy ban Liên hiệp đình chiến Trung ương Cao Miên có nhiệm vụ đại diện cho hai bên đã ký kết hiệp định đình chiến đặt kế oạch và thể thức thực hiện các điều khoản trong Hiệp định đình chiến; đồng thời, thương lượng giải quyết mọi việc khác có liên quan đến hiệp định đó. Sau khi thành lập, Ủy ban liên hiệp đình chiến Trung ương bàn bạc nơi tập kết quân, các con đường hành quân, phương tiện di chuyển, ngày giờ rút quân và thành lập các toán liên hiệp để tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các điều khoản của Hiệp định Geneve.
Nhằm thực hiện hiệu quả hơn nghĩa vụ quốc tế đối với Lào, Campuchia, từ ngày 5 đến ngày 7.9.1954, Bộ Chính trị BCH Trung ương ĐLĐVN họp ra Nghị quyết “Về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng”, với nội dung chính: Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam đã bước vào một giai đoạn mới, trong đó mối quan hệ giữa ba nước Việt Nam, Lào và Cao Miên đã thay đổi. Trước đây lúc chiến tranh, cả Việt Nam và địch đều không phân biệt ranh giới giữa ba nước trong hành động quân sự[8]. Ngày nay, trong hoàn cảnh hoà bình, mối quan hệ giữa Việt Nam với Lào, Campuchia cần đặt trên cơ sở mới. Mối quan hệ đó nên đặt trên nguyên tắc lớn là “tôn trọng lãnh thổ và chủ quyền của nhau, không xâm lấn nhau, không can thiệp nội chính của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, sống chung trong hoà bình”. Cần tìm mọi cách tăng cường tình hữu nghị giữa Việt Nam với Lào, Campuchia, tăng cường đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Nghị quyết nhấn mạnh: Để thực hiện đình chiến, củng cố hòa bình, cần phải kiên quyết, triệt để thực hiện các điều khoản trong Hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Lào và Cao Miên; cần giải thích nội dung, thực chất của Hiệp định đình chiến và của bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneve một cách sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân[9].
Tiếp đó, ngày 19.10.1954, Bộ Chính trị BCH Trung ương ĐLĐVN ra Nghị quyết về việc giúp đỡ cách mạng Lào. Sau khi phân tích tình hình Lào, Nghị quyết đề ra phương châm đấu tranh của cách mạng Lào là phải xây dựng lực lượng của thật vững chắc làm cơ sở quyết định thắng lợi. Về sách lược, Nghị quyết chỉ rõ phải tranh thủ Pháp và Ấn Độ để cô lập và đả kích đế quốc Mỹ và bọn tay sai Mỹ[10]. Trước mắt, Nghị quyết đề ra một số chủ trương cụ thể về chính quyền ở hai tỉnh tập kết, về các đơn vị quân đội nhà vua đang đóng ở hai tỉnh tập kết; về quan hệ với chính phủ nhà vua[11]. Cuối cùng, Nghị quyết nhấn mạnh: Vô luận tình hình phát triển như thế nào, cũng phải hết sức tăng cường công tác củng cố hai tỉnh, xây dựng quân đội, gây dựng cơ sở nhân dân, đẩy mạnh đấu tranh chính trị trong toàn quốc, nhất là vùng mới rút quân.
Ngày 27.11.1954, Ban Cán sự Lào đã ra thông báo Về tình hình mới, nhiệm vụ mới và công tác mới ở Lào. Thông báo nêu rõ: Quan hệ Lào-Việt đã thay đổi và phải đặt trên cơ sở mới. Thời kỳ đấu tranh Lào-Việt là một chiến trường duy nhất không thể tách rời. Nhưng hòa bình được lập lại và các điều khoản đình chiến đã khiến Việt Nam không thể giữ quan hệ về mặt quân sự cũng như về mặt chính trị như trước nữa. Tình hình mới đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi phương châm sách lược đấu tranh cho thích hợp, nhưng lập trường đấu tranh của Việt Nam trong hòa bình cũng như trong kháng chiến vẫn là một, không hay đổi. Lập trường đó là hòa bình, dân chủ, thống nhất và độc lập. Nhiệm vụ chung của Việt Nam và Lào trong giai đoạn hòa bình là: Đoàn kết và lãnh đạo toàn dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến để củng cố hòa bình, xây dựng hai tỉnh tập kết thành căn cứ địa đấu tranh của toàn quốc, giữ vững và phát triển các cơ sở quần chúng ở vùng ta phải lui quân, đòi ban hành các quyền dân chủ, dựa vào lực lượng của cách mạng  và hiệp định đình chiến mà thương lượng, hợp tác với chính phủ nhà vua, tiến tới tổng tuyển cử tự do và thành lập một chính quyền liên hiệp thống nhất, tiến tới xây dựng một nước Lào dân chủ và hoàn toàn độc lập, góp phần vào hòa bình ở châu Á và thế giới[12].
Tháng 11.1954, Trung ương ĐLĐVN ra Nghị quyết về giúp cách mạng Lào trong tình hình mới, xác định một số nhiệm vụ chung trong giai đoạn hoà bình:
1. Đoàn kết lãnh đạo toàn diện đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến.
2. Xây dựng hai tỉnh Sầm Nưa và Phong Sa Lỳ thành căn cứ đấu tranh của toàn quốc, giữ vững cơ sở vùng ta phải rút quân.
3. Đòi ban hành các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân.
4. Dựa vào lực lượng cách mạng Lào và hiệp định đình chiến để thương lượng hợp tác với chính phủ nhà vua, tiến hành tổng tuyển cử tự do và thành lập Chính phủ liên hiệp thống nhất, tiến tới xây dựng một nước Lào dân chủ và hoàn toàn độc lập, góp phần bảo vệ hoà bình ở châu Á và thế giới.
Yêu cầu đặt ra sau khi tiến hành chuyển quân tập kết xong là hai bên phải xúc tiến nhanh chóng việc thành lập Ủy ban hiệp thương chính trị, tiến hành đàm phán để tìm ra giải pháp chính trị thỏa đáng cho vấn đề hòa bình thống nhất Lào theo tinh thần Hiệp định Geneve đã quy định. Sau 6 tháng kiên trì đấu tranh, ngày 18.1.1955, Hội nghị hiệp thương chính trị hai bên giữa Neo Lào Hắc Xạt và Vương quốc Lào được khai mạc ở Cánh Đồng Chum. Tại hội nghị, phía Neo Lào Hắc Xạt đề nghị thảo luận ba vấn đề cơ bản:
1. Đình chỉ xung đột quân sự ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phong Sa Lỳ.
2. Lập hội đồng chính trị hiệp thương.
3. Giải quyết vấn đề hành chính, quân sự ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phong Sa Lỳ.
Tuy nhiên, phía Vương quốc đòi ghi tuyên bố của nhà vua vào bản tuyên bố chung, nghĩa là muốn sáp nhập hai tỉnh Sầm Nưa, Phong Sa Lỳ vào chính quyền Vương quốc Lào. Sau hơn hai tháng, đến ngày 9 tháng 3 năm 1955, Hội nghị hiệp thương chính trị giữa Pathét Lào và Vương quốc Lào (do phía Vương quốc luôn tự ý bỏ họp) mới ra được thuyên bố chung cam kết: Chấm dứt mọi hành động công kích lẫn nhau. Mỗi bên ra lệnh cho lực lượng vũ trang của mình đình chỉ mọi hành động tiến công quân sự. Về phía Campuchia, ngày 22.12.1954, Trung ương Khơme ra chỉ thị về vấn đề tổng tuyển cử, nội dung nêu rõ về mục đích yêu cầu; phương châm hoạt động; kế hoạch vận động. Ngày 8.1.1955, Trung ương Cục miền Nam điện báo cáo Trung ương ĐLĐVN về tình hình Phnôm Pênh và và chủ trương Tổng tuyển cử ở Cao Miên, nhằm đạt mục tiêu “tranh thủ hoạt động, vận động đưa một số người vào quốc hội, tranh thủ hoạt động công khai hợp pháp để đấu tranh thực hiện đúng đắn Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, chống âm mưu xâm lược của đế quốc, thi hành các quyền tự di dân chủ cải thiện dân sinh”[13]. Tháng 4-1955, Liên khu ủy 5 (Việt Nam) báo cáo tình hình Miên trong 2 tháng 2 và 3.1955, xác định kế hoạch tháng 4 và 5.1955 với các nhiệm vụ trọng tâm: “Theo dõi và giúp đỡ phong trào chống Mỹ hiện nay ở Miên; theo dõi tình hình địch, mâu thuẫn Mỹ - Pháp và âm mưu phá tổng tuyển cử ở Miên của Xihanúc để có kế hoạch phối hợp đấu tranh của nhân dân với đấu tranh của Ủy ban quốc tế; chấn chỉnh và phát triển việc tuyên truyền chống Mỹ, đòi thi hành hiệp định ở Miên, nhất là các điều khoản còn liên quan đến Việt Nam như vấn đề căn cứ quân sự ngoại quốc, vấn đề tù binh, vấn đề Việt kiều; tìm cách xây dựng quan hệ tốt với Miên để chuẩn bị cho việc xây dựng quan hệ chính thức”[14].
Sự kiện Hội nghị hiệp thương chính trị giữa Pathét Lào và Vương quốc Lào bước đầu tạo ra sự ổn định giữa hai bên nội bộ ở Lào; đồng thời tác động đến mối quan hệ giúp đỡ giữa Pathét Lào và Chính phủ VNDCCH.
Trước tình hình mới, ngày 22.11.1955, Bộ Chính trị BCH Trung ương ĐLĐVN đã họp bàn về tình hình Lào, và đề ra chủ trương, nhiệm vụ giúp cách mạng Lào. Bộ Chính trị chỉ rõ: Đế quốc Mỹ đang ráo riết đẩy mạnh các hoạt động chia rẽ Lào, Việt Nam, cụ thể là: Chúng tìm mọi cách để cán bộ Việt Nam phải về nước, cô lập Pathét Lào, lừa gạt, mua chuộc, chia rẽ nội bộ Lào, chia rẽ Lào và Việt Nam. Bộ Chính trị phân tích thêm: Hành động của Mỹ là một mặt tỏ ra ôn hòa, sốt sắng trong hội nghị hiệp thương; mặt khác lợi dung hội nghị để thực hiện âm mưu thôn tính hai tỉnh tập kết Sầm Nưa và Phong Sa Lỳ của Lào. Trên cơ sở phân tích tình hình, Bộ Chính trị xác định phương châm đấu tranh: Vừa đàm phán thương lượng, vừa ra sức củng cố và phát triển lực lượng, vận động các tầng lớp nhân dân ủng hộ lập trường của Việt Nam; đồng thời, nhấn mạnh: Vấn đề mấu chốt của cách mạng hiện tại là giữ gìn hai tỉnh tập kết, đòi thực hiện  quyền tự do dân chủ để đi tới tổng tuyển cử trong cả nước Lào.
Từ ngày 3 đến 12.3.1955, BCH Trung ương ĐLĐVN lần thứ 7 đã tiến hành Hội nghị lần thứ 7 (mở rộng). Sau khi xác định âm mưu của đế quốc Mỹ là phá hiệp định đình chiến, phá hoà bình, chuẩn bị gây lại chiến tranh Đông Dương; đồng thời tìm mọi cách phá hoại công cuộc thống nhất Việt Nam, chuẩn bị phá tổng tuyển cử tự do, Hội nghị đặt mục tiêu quan trọng nhất là đấu tranh chống đế quốc Mỹ, cụ thể là động viên quần chúng đấu tranh rộng rãi để chống đế quốc Mỹ can thiệp vào Đông Dương, đưa miền Nam Việt Nam (cũng như Lào) vào khối xâm lược Đông Nam Á, hoặc vào bất cứ một khối liên minh quân sự nào khác; chống đế quốc Mỹ vi phạm và phá hoại Hiệp định đình chiến, chuẩn bị gây lại chiến tranh; chống âm mưu của đế quốc Mỹ đối với vùng tập kết của các lực lượng Pathét Lào.
Trước sự chuyển biến của tình hình thế giới, Đông Dương và ở Lào, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương (2-1951), từ 22-3 đến 6-4-1955 tại một địa điểm gần biên giới Việt Nam - Lào thuộc xã Sơn Thủy, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa, diễn ra Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào[15], đánh dấu bước trưởng thành mới của cách mạng Lào và mở ra triển vọng phát triển mới trong quan hệ đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau giữa Đảng, Quân ủy, quân đội hai nước Việt Nam-Lào.
Sau khi được thành lập, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn mới, ngày 12.7.1955, BCH Trung ương Đảng Nhân dân Lào ra Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cách mạng Lào cho đến ngày tổng tuyển cử. Nghị quyết phân tích tình hình Lào: Tình hình Lào ngày càng diễn biến khẩn trương, phức tạp. Các điều khoản của hiệp định đình chiến không được tôn trọng và đang bế tắc trong việc thống nhất bằng giải pháp chính trị. Mỹ âm mưu phá hoại hai tỉnh tập kết, trước mắt là gạt Pathét Lào ra khỏi cuộc tổng tuyển cử. Nghị quyết tiên đoán về một trong ba khả năng sẽ diễn ra đối với Lào: Một là, Mỹ tiếp tục thực hiện kế hoạch vết dầu loang, lấn dần hai tỉnh tập kết; hai là, Mỹ đến hội nghị giải quyết các vấn đề có liên quan đến hai bên bằng giải pháp thương lượng hoà bình; ba là, địch mở cuộc tiến công quy mô chiếm toàn bộ hai tỉnh tập kết Sầm Nưa và Phong Sa Lỳ. Nghị quyết chỉ ra nhiệm vụ và một số công tác trước mắt của cách mạng Lào như sau: kiên trì đấu tranh chính trị, thực hiện thống nhất nước nhà bằng tổng tuyển cử tự do và trên cơ sở bảo tồn lực lượng cách mạng Lào; đồng thời, phải tăng cường lực lượng về mọi mặt để sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống. Khẩu hiệu đấu tranh là đòi Chính phủ vương quốc Lào phải thi hành đúng đắn hiệp định đình chiến, thành thực thương lượng với Pathét Lào để củng cố hoà bình, thực hiện tự do dân chủ, tiến tới tổng tuyển cử tự do, thống nhất nước nhà và hoàn thành độc lập dân tộc. Mục đích chủ yếu của cách mạng Lào trong giai đoạn này là hoà bình, tự do dân chủ, thống nhất và độc lập[16]. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Lào là: Đoàn kết toàn dân, đấu tranh đòi thi hành hiệp định đình chiến, củng cố hoà bình[17], dựa vào lực lượng quần chúng, vào hiệp định đình chiến để thương lượng với Chính phủ Vương quốc, đòi ban hành quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, tiến hành tổng tuyển cử tự do, thành lập Chính phủ liên hiệp thống nhất, tiến tới xây dựng một nước Lào dân chủ và hoàn toàn độc lập.
Để tăng cường đoàn kết giữa hai Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, ngày 1.8.1955, BCH Trung ương ĐLĐVN gửi thư tới Ban chỉ đạo toàn quốc Đảng Nhân dân Lào nhấn mạnh nhiệm vụ tiếp tục thi hành Hiệp định Geneve, thực hiện độc lập, chủ quyền, thống nhất và đảm bảo lãnh thổ toàn vẹn của nước Lào, kiên trì đấu tranh chính trị và quân sự, giữ vững và củng cố hai tỉnh tập kết, lập thành căn cứ địa của cách mạng Lào.
Để giúp Trung ương theo dõi, nghiên cứu, nắm tình hình Lào – Miên và quyết định những chủ trương, đường lối cần thiết trong việc giúp đỡ phong trào cách mạng Lào – Miên về mọi mặt; giúp Trung ương đôn đốc việc thi hành những chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về vấn đề Lào – Miên, ngày 10.8.1955, Ban Bí thư Trung ương ĐLĐVN ra Nghị quyết (số 20-NQ/TW) về việc thành lập Ban Lào – Miên Trung ương. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của Ban Lào – Miên Trung ương là “theo dõi giúp Trung ương việc thi hành Hiệp định đình chiến ở Lào, Miên về mọi mặt”[18].
Phối hợp với Việt Nam, tháng 8.1955, BCH Đảng Nhân dân Lào ra Nghị quyết Về tình hình và nhiệm vụ cách mạng Lào, xác định nhiệm vụ của cách mạng Lào: Đoàn kết toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất, kiên trì đấu tranh chính trị, quân sự, giữ vững và phát triển cơ sở quần chúng; lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi Mỹ và tay sai phải thực hiện đúng Hiệp định Geneve, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Lào[19]. Ngày 1 tháng 8 năm 1955, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam  ra chỉ thị về hoạt động quân sự ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phông xa lỳ nhằm đối phó với âm mưu mới của địch, chủ trương: “Đẩy mạnh hoạt động chính trị trong toàn quốc, chủ động nắm vững pháp lý của Hiệp định Giơnevơ đòi tổng tuyển cử có Pa thét Lào”[20].
Sau hơn một năm ký Hiệp định Geneve, Mặt trận Neo Lào Ítxala đã nghiêm chỉnh thi hành các điều khoản cam kết và kiên quyết đấu tranh giương cao ngọn cờ hòa bình, trung lập, còn Mỹ thì ra sức phá hoại Hiệp định Geneve, đi ngược lại mọi cam kết, kích động, gây ra cuộc xung đột lớn ở hai tỉnh Sầm Nưa, Phong Sa Lỳ. Trước tình hình đó, hình thức tổ chức Mặt trận Neo Lào Ítxala không còn phù hợp, cần có một hình thức tổ chức mặt trận rộng rãi hơn nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh chính trị trong bước phát triển mới của cách mạng Lào. Do vậy, ngày 12.10.1955, Hội nghị trù bị thành lập Ban vận động toàn quốc Mặt trận thống nhất Lào được tiến hành. Cũng từ tháng 10.1955, phía Việt Nam và quốc tế đã đề ra kế hoạch tuyên truyền về tình hình Lào, theo đó chủ trương của Pathét Lào là kiên trì đấu tranh giữ vững hai tỉnh làm căn cứ địa cho cách mạng cả nước Lào; duy trì hội nghị hiệp thương để giúp đỡ cho cuộc đấu tranh chính trị toàn Lào; tiến hành đấu tranh quân sự cho hai tỉnh chống các cuộc tiến công của quân đội nhà vua đòi tổng tuyển cử tự do cho Pathét Lào[21]. Tháng 12.1955, Ban Bí thư Trung ương ĐLĐVN chỉ thị cho Ban Cán sự giúp Lào kiên quyết phá cuộc tổng tuyển cử riêng rẽ của chính phủ nhà vua Lào trái với Hiệp định Geneve [22] với tinh thần tùy tình hình và khả năng cụ thể của cách mạng mà tuyên truyền vận động nhân dân phản đối tổng tuyển cử, hoặc bằng các hình thức tẩy chay phá rối, cướp thùng phiếu, bỏ phiếu trắng, hoặc bỏ phiếu cho Pathét Lào…những biện pháp này cần được thực hiện tối đa ở vùng địch kiểm soát. Ở vùng du kích, phải tập trung lực lượng canh gác, ngăn chặn không cho địch cho quân đội và gián điệp gọi dân đi bầu và cần bàn kỹ với Pathét Lào để có kế hoạch đối phó sát với từng trường hợp.
Tháng 1.1956, Mặt trận Lào yêu nước được thành lập và ra tuyên bố chung về đường lối hòa bình trung lập của Lào. Trước lời kêu gọi của Hoàng thân Xuphanuvông về việc nối lại các cuộc hiệp thương chính trị giữa Chính phủ kháng chiến và Chủ tịch Neo Lào Hắc Xạt, tháng 12.1956 Hội nghị hiệp thương chính trị giữa Neo Lào Hắc Xạt và Chính phủ Vương quốc Lào đã họp tại Viêng Chăn thảo luận những vấn đề về hòa hợp dân tộc. Tháng 11.1957 cuộc đàm phán giữa Hoàng thân Xuphanuvông và Hoàng thân Phuma đã quyết định công bố những văn kiện cụ thể về giải quyết vấn đề hòa hợp dân tộc. Cùng thời gian này, Hội nghị liên hiệp quân sự giữa Neo Lào Hắc Xạt và Chính phủ Vương quốc Lào ký hiệp định giải quyết lực lượng vũ trang của Neo Lào Hắc Xạt. Theo Hiệp định, Chính phủ Vương quốc Lào bảo đảm sáp nhập tất cả quân đội, vũ khí của Neo Lào Hắc Xạt vào quân đội quốc gia; những người tình nguyện ở lại quân đội sẽ được đưa vào quân thường trực của Vương quốc Lào. Các đơn vị quân đội của Neo Lào Hắc Xạt sáp nhập quân đội quốc gia sẽ được hưởng quyền lợi bình đẳng về mọi mặt. Sau khi sáp nhập quân đội quốc gia, các đơn vị quân đội của Neo Lào Hắc Xạt sẽ đóng tại quân khu cũ của mình. Thời hạn sáp nhập các đơn vị vũ trang của Neo Lào Hắc Xạt vào quân đội quốc gia là 60 ngày kể từ ngày thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc. Thực hiện hiệp định ký kết về tổng tuyển cử, ngày 4.5.1958, cả nước Lào đã tiến hành tổng tuyển cử bổ sung để bầu thêm nghị sỹ. Đây là cuộc tổng tuyển cử đầu tiên tất cả cử tri có quyền bầu cử gồm người của các bộ tộc, các tầng lớp, tôn giáo, giai cấp đều có quyền đi bỏ phiếu. Kết quả của cuộc bầu cử cùng với việc thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc lần thứ nhất và sửa đổi hiến pháp là thắng lợi quan trọng của đường lối hòa bình trung lập, độc lập, dân chủ, thống nhất đúng đắn của Đảng Nhân dân Lào.
Ở Campuchia, trong năm 1955, chính quyền vương quốc, một mặt tổ chức chính phủ thân Vua, quây quần 4 đảng phản động chung quanh Xihanúc để củng cố địa vị nhà vua; mặt khác, định sửa đổi luật tổng tuyển cử toan bóp hẹp phong trào đòi dân chủ của nhân dân, đả kích nhóm Sơn Ngọc Thành và Đảng Dân chủ, chuẩn bị điều kiện đàn áp lực lượng Issara. Trong tình hình đó, "Chính phủ Xihanúc đã tuyên bố hoãn tổng tuyển cử đến cuối năm, có thể bỏ những dự án luật tổng tuyển cử mới đặt ra"[23]. Sau Hội nghị Geneve, ảnh hưởng của Ítxarắc lan rộng không những ở nông thôn mà cả các thành thị. Phong trào dân tộc dân chủ của các tầng lớp trí thức tiểu tư sản lên cao[24].  Nhìn chung, Mỹ đang xâm nhập mạnh vào Miên, Việt Nam có ít nhiều điều kiện để ngăn cản bàn tay Mỹ định biến Miên làm thuộc địa và kéo Miên vào khối SEATO[25].
Trong Đại hội hòa bình thế giới tiến hành ở Henxanhki từ 22 đến 29 tháng 6 năm 1955, Đoàn đại biểu nhân dân Khơme và Việt Nam ra một bản Tuyên bố chung, cùng nhau hứa: sẽ đoàn kết với nhau chặt chẽ hơn nữa, để thực hiện triệt để hoàn toàn Hiệp định Geneve, đặc biệt là thực hiện Tổng tuyển cử tự do ở Lào và Cao Miên trong năm 1955 và Tổng tuyển cử tự do ở Việt Nam vào tháng 7.1956, cùng nhau phản đối đế quốc Mỹ can thiệp vào nội trị của ba nước và khối xâm lược Đông Nam Á, tán thành lấy 5 nguyên tắc chung sống hòa bình để đặt quan hệ ngoại giao giữa ba nước với nhau[26]. Ngày 15 tháng 6 năm 1955, Ban Lào - Miên Trung ương báo cáo tình hình và nhiệm vụ mới ở Cao Miên, chỉ rõ: "Cuộc cách mạng Miên không thể tách rời cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới. Ba dân tộc Việt – Miên – Lào có sự liên quan chặt chẽ về địa lý, chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa từ lâu đời cũng như trong quá trình tranh đấu lật đổ nền thống trị của Pháp, nhất là thời kỳ kháng chiến vừa qua"[27]. Do vậy, "cách mạng của ba nước Đông Dương phải khăng khít hơn nữa để đấu tranh bảo vệ thắng lợi của Hội nghị Geneve, bảo vệ hòa bình, độc lập, chủ quyền quốc gia"[28], giúp Cao Miên thực hiện nhiệm vụ "đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Geneve; chống bắt bớ, khủng bố đàn áp, cưỡng ép vào cộng đồng xã hội bình dân, bắt lính, bắt phu, đóng thuế, đòi các quyền tự do dân chủ và cải thiện dân sinh"[29].
Tháng 9-1955, ở Campuchia tổ chức tổng tuyển cử, Đảng của Xihanúc giành được 91 ghế, Đảng Dân chủ đang bị mất cơ quan lãnh đạo (phần bị bắt, phần chạy tán loạn). Về tổng tuyển cử ở Campuchia, quan điểm của Việt Nam là : "Cuộc Tổng tuyển cử tự do theo Hiệp định Geneve tiến hành ở Cao Miên ngày 11.9 đã bị âm mưu Mỹ xuyên qua Đảng Cộng đồng xã hội bình dân của Xihanúc và các tay sai trong Chính phủ Vương quốc Cao Miên biến thành cuộc tổng tuyển cử độc tài và gian lận"[30]. Trước tình hình Cao Miên có nhiều biến chuyển quan trọng, ngày 30.3.1956, BCH Trung ương ĐLĐVN ra chỉ thị (số 017-CT-TW cho Ban Cán sự Cao Miên; trong đó, phân tích về xu hướng trung lập của Quốc vương Xihanúc, chỉ rõ “Xihanúc đã trở thành nhân vật có lợi cho phong trào chống Mỹ ở Miên, ta phải biết ủng hộ và tận dụng những lời tuyên bố về chính sách trung lập, về cải cách dân chủ của Xihanúc để đấu tranh thúc đẩy Xihanúc và chính phủ nhà Vua thực hiện chính sách chống Mỹ và nước Miên trung lập”[31]. Tiếp theo Chỉ thị số 017-CT/TW ngày 30.3.1956, ngày 27.6.1956, Trung ương ĐLĐVN điện bổ sung thêm mấy ý kiến khẩn cấp về tình hình Cao Miên, chỉ thị phải “xúc tiến công tác Mặt trận chống Mỹ rộng rãi trên cơ sở công, nông liên minh để thực hiện thống nhất hành động và đoàn kết rộng rãi với các đảng phái, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các nhân sĩ, các sư sãi và những phần tử yêu nước”[32].
Như vậy, sau những năm đấu tranh thực hiện Hiệp định Geneve, được sự giúp đỡ của Đảng và nhân dân Việt Nam, Đảng Nhân dân Lào và Mặt trận Lào yêu nước đã kiên quyết đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Geneve, song trong Chính phủ Vương quốc Lào, Mỹ và lực lượng đối địch vẫn đang tìm cách biến Lào thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Trong khi đó, ở Campuchia, Việt Nam giúp đỡ, ủng hộ nhóm Nhân dân và Đảng Dân chủ ; tuy nhiên, do tình hình Campuchia diễn biến phức tạp, kết quả của tổng tuyển cử không được như mong muốn[33].

Download toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC



[1] Hai tỉnh Sầm Nưa, Phong Xa Lỳ và một dãy hành lang nối liền hai tỉnh, xuyên qua phía đông tỉnh Luông Phra Băng, gọi là “Đàn Pẹt” (tiểu khu 8) - một vùng rừng núi hiểm trở với diện tích khoảng 32.770 km2, nơi cư trú của 32 vạn dân gồm nhiều bộ tộc sống xen kẽ nhau, từng là vùng căn cứ Trung ương cách mạng Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nối liền với khu Tây Bắc và Liên khu 4 (Việt Nam) trở thành chỗ đứng chân của lực lượng cách mạng Lào sau Hiệp định Geneve. Trong khi quân tình nguyện Việt Nam rút về nước, quân Pháp triệt thoái khỏi Lào trong thời hạn 120 ngày (kể từ ngày ký Hiệp định Giơ-ne-vơ), các lực lượng cách mạng Lào từ khắp nơi trong cả nước chuyển về tập kết ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phong Xa Lỳ, chờ hai phái Pa-thét Lào và Chính phủ Vương quốc Lào đàm phán tìm giải pháp chính trị hoà hợp dân tộc, bảo đảm quyền tự do cho nhân dân xây dựng lại cuộc sống ấm no hạnh phúc.
[2] Trong 20 năm (1955-1975), Mỹ đã viện trợ vào Lào gần 4 tỷ đôla, trong đó viện trợ quân sự chiếm 3 tỷ đôla. Giai đoạn 1955 - 1961, viện trợ bình quân mỗi năm 220 triệu đôla; 1962-1971 bình quân 220 triệu đôla và giai đoạn 1972 - 1975 bình quân mỗi năm 260 triệu đôla (Nguồn: Nguyễn Hùng Phi - TS Buasi Chalơnsúc: Lịch sử Lào hiện đại, Tập II, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.28-29).
[3] Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, quân đội Viêng Chăn (còn được gọi là “quân đội quốc gia Lào”) do Pháp xây dựng còn khoảng 10.000 quân có trang bị vũ khí kém và phụ thuộc nặng nền vào Pháp. Đế quốc Mỹ đã tổ chức, xây dựng, huấn luyện và phát triển đội quân này nhanh chóng nhằm phục vụ cuộc chiến tranh xâm lược thực dân của Mỹ bởi như chính các nhà chính trị, quân sự Mỹ đã nói: “Quân đội Hoàng gia Lào đã ra đời với sự trả giá của những người nộp thuế của nước Mỹ” (Nguồn: Pi-tơ A. Pu-lơ, Nước Mỹ và Đông Dương từ Ru-dơ-ven đến Ních-xơn, Nxb. Thông tin lí luận, Hà Nội, 1986, tr.79). Đến năm 1955, quân số đạt 25.000, cuối 1960 lên 44.000 người và cuối 1965 lên 70.000 người.
[4] Ông sinh ngày 31-10-1922, là cháu nội của vua Nôrôđôm và là cháu ngoại của vua Sisowath. Năm 1941, ông lên ngôi Hoàng đế Vương quốc Campuchia trong khuôn khổ chế độ bảo hộ của thực dân Pháp.
[5] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phông Ban Chấp hành TW khóa II, số 11, Mục lục số 2, ĐVBQ số 1058.
[6] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phông Ban Lào - Miên, số 73, Mục lục số 01, ĐVBQ số 69.
[7] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phông Ban Lào - Miên, số 73, Tlđd.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, t.15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.286.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, t.15, Sđd, tr.283.
[10] Cục L­ưu trữ Văn phòng Trung­ ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phông 185, đơn vị bảo quản  29.
[11] Cụ thể là: 1. Về chính quyền ở hai tỉnh tập kết, trước hết phải tranh thủ được sự uỷ nhiệm của Chính phủ nhà vua trong việc để cán bộ Pathét Lào tạm thời phụ trách, hai tỉnh vẫn nằm trong phạm vi chung của Chính phủ nhà vua, nhưng không có đại diện nhà vua ở đó. Nếu đấu tranh mà không giải quyết được thì có thể đến nhà vua cử đại diện ở hai tỉnh cùng với sự uỷ nhiệm để Pathét Lào phụ trách hai tỉnh. 2. Về các đơn vị quân đội nhà vua đang đóng ở hai tỉnh tập kết: quân đội nhà vua tập trung ở hai khu vực giáp giới giữa hai bên. Theo nguyên tắc khu vực đóng quân của quân đội nhà vua càng hẹp càng có lợi cho ta. Nếu phía họ không chịu thì vẫn giữ nguyên trạng rồi sẽ giải quyết sau. Hai bên cam kết không gây ra xung đột. 3. Đối với chính phủ nhà vua: Nếu chính phủ Phu-ma vẫn đứng vững thì một mặt ta gửi điện hẹn ngày gặp chính thức; đồng thời Thủ tướng Xu Pha Nu Vông sẽ ra tuyên bố với đại ý Chính phủ kháng chiến Pathét Lào sẽ hợp tác chặt chẽ hơn nữa với chính phủ nhà vua
[12] Cục L­ưu trữ Văn phòng Trung­ ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phông 185, đơn vị bảo quản  29.
[13] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phông Ban Lào - Miên, số 73, Tlđd.
[14] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phông Ban Lào – Miên, số 73, Tlđd.
[15] Tham dự có 20 đại biểu chính thức thay mặt cho 300 chiến sĩ cộng sản Lào (nguyên là Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương) đang chiến đấu và công tác trên khắp các chiến trường Lào từ bắc xuống nam.
[16] Những sự kiện Lào, tập II, Tài liệu Tổng kết C, số 398, Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
[17] Những sự kiện Lào, tập II, Tài liệu Tổng kết C, số 398, Tlđd.
[18] Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào Lào - Việt Nam 1930 - 2007: Biên niên sự kiện (2011), T. 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.467.
[19] Những sự kiện Lào, tập II, Tài liệu Tổng kết C, số 398, Tlđd.
[20] Những sự kiện Lào, tập II, Tài liệu Tổng kết C, số 398, Tlđd.
[21] Cục L­ưu trữ Văn phòng Trung­ ương Đảng Cộng sản Việt Nam  phông 73, đơn vị bảo quản số 217.
[22] Trên thực tế, ngày 25/12/1955, Chính phủ Vương quốc đã tiến hành tổng tuyển cử riêng rẽ bất hợp pháp, ngang nhiên không thừa nhận bốn đại biểu của Sầm Nưa và Phong Xa Lỳ do Chính phủ Vương quốc chỉ định.
[23] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phông Ban Chấp hành Trung ương khóa II, số 11, Mục lục số 2, ĐVBQ số 503.
[24] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phông Ban Chấp hành Trung ương khóa II, số 11, Tlđd.
[25] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phông Ban Chấp hành Trung ương khóa II, số 11, Tlđd.
[26] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phông Ban Lào - Mên, số 73, Mục lục số 1, ĐVBQ số 222.
[27] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phông Ban Lào – Mên, số 73, Mục lục số 1, ĐVBQ số 164.
[28] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phông Ban Lào – Mên, số 73, Mục lục số 1, Tlđd.
[29] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phông Ban Lào – Mên, số 73, Mục lục số 1, Tlđd.
[30] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phông Ban Lào – Mên, số 73, Mục lục số 1, Tlđd
[31] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phông Ban Chấp hành Trung ương khóa II, số 11, Mục lục số 2, ĐVBQ số 506.
[32] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phông Ban Chấp hành Trung ương khóa II, số 11, Mục lục số 2, ĐVBQ số 506.
[33] Đảng Cộng đồng xã hội bình dân đã chiếm hết 91 ghế trong Quốc hội bằng cách huy động tất cả mọi lực lượng hành chính, quân đội, cảnh sát và công an, họ đã cưỡng ép 630.625 (85%) trong số 761.958 cử tri bỏ thăm cho họ (tổng số cử tri toàn quốc 1.145.045), Đảng Dân chủ được 93919 (12%), Đảng Nhân dân 29.503 (4%), còn khoảng trên 7000 (1%) thuộc các Đảng Tự do, Phục hưng, Độc lập (Nguồn : Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phông Ban Lào – Miên, số 73, Mục lục số 1, ĐVBQ số 164).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!